TIN VUI

Tuần san Công Giáo Tin vui - Số 105 CN 30.09.2007

 

Web site ww.tinvui.org  E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

MỤC LỤC

 

Chúa Nhật XXVI Thường Niên C.

KHOẢNG CÁCH..

Kinh Thánh trong đời thánh nữ truyền giáo Têrêsa.

Bài Giảng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cho Giờ Kinh Tối với các vị linh mục, tu sĩ, phó tế và chủng sinh ở Đến Mariazell ngày Thứ Bảy 8/9/2007.

Ðức Hồng Y Camillo Ruini nhận định về công cuộc rao giảng Phúc Âm tại Âu Châu.

Ðêm Canh Thức Cầu Cho Ðức cố Giám Mục Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến.

Dòng Đaminh Rosa Lima phát thuốc tại nhà thờ Cái Mây, Cái Bè Tiền Giang.

THƯ CÁM ƠN CỦA ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VINH..

Thư mục vụ Giáo phận Hải phòng nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi 2007.

Lời Chủ Chăn tháng 10.2007.

Nhân quyền và bổn phận học hỏi Giáo Huấn của Giáo Hội về xã hội

ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU..

MẸ MARIA-NGƯỜI NỮ TỰ DO..

VIÊN NGỌC THỜI GIAN..

Cây cầu thông thương.

CHUỖI MÂN CÔI VÀ ĐỜI LINH MỤC..

HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT MÂN CÔI.

Con Đường Nhỏ của Một Vị Thánh Lớn:  Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng (1873-1897).

MAURO PRIMAVERA: GIÃ TỪ NGHỀ LÀM NGƯỜI MẪU THỜI TRANG ĐỂ ĐI TU..

Khi vợ chồng dạy con mỗi người một phách.

GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO..

NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ..

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật XXVI Thường Niên C

Lc 16, 19-31

"Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:

" 'Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này'. Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được'.

"Người đó lại nói: 'Đã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này'. Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài'. Người đó thưa: 'Không đâu, lạy cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải'. Nhưng Abraham bảo người ấy: 'Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu' ".

Đó là lời Chúa.

KHOẢNG CÁCH

 

Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.

 

1. Khoảng cách đời này.

 

Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.

 

Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.

 

Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng : người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.

 

2. Khoảng cách đời sau.

 

Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”

 

3. Khoảng cách đời này và đời sau

 

Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn : hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau ? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận ? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng ?

 

Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.

 

Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì  ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.

 

Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.

 

Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.

 

Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.

 

Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.

 

Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng : Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).

 

Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày.Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.

 

Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.

 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Mục lục

 

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

Kinh Thánh trong đời thánh nữ truyền giáo Têrêsa

 

Ngày 01 tháng 10 hằng năm, Hội Thánh mừng lễ thánh Têrêsa nhỏ. Thánh nữ Têrêsa nhỏ cũng gọi là thánh Têrêsa thành Lisieux. Năm nay kỷ niệm 110 năm thánh Têrêsa này qua đời lúc mới 24 tuổi (1897-2007).

 

Toà Thánh tôn phong thánh nữ là Quan Thầy các xứ truyền giáo.

 

Tuy dù thánh nữ nhỏ về tuổi, nhỏ về chức vụ, nhỏ về hoạt động bên ngoài. Nhưng tâm hồn thánh nữ đón nhận trọn vẹn ý Chúa về truyền giáo. Nhờ đâu ? Nhờ Kinh Thánh. Kinh Thánh đã hướng dẫn Têrêsa đi vào con đường bé nhỏ với lửa tình yêu.

 

Thực vậy, Têrêsa nhận thánh ý Chúa từ Kinh Thánh. Thánh ý Chúa đào tạo Têrêsa nên nhà truyền giáo.

 

  1. Hằng ngày Têrêsa nhận thánh ý Chúa từ Kinh Thánh.

 

Từ nhỏ cho đến chết, Têrêsa thiêu đốt trong tâm hồn bởi lửa khao khát Chúa.

 

Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong.

Hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.

Linh hồn cao khao khát Chúa Trời là Chúa Trời hằng sống” ( Tv 41, 2-3).

 

Lòng khao khát Chúa được chớm nở dần dần ngay từ tuổi bé thơ. Tại gia đình, cha mẹ và các chị thường đọc cho Têrêsa nghe các chuyện thánh rút từ Cựu Uớc và Tân Ước. Thêm vào đó, gia đình cũng quen đọc tập “Năm Phụng vụ” của Dom Guéranger.

 

Bài giảng thứ nhất đã làm xúc động Têrêsa tại nhà thờ giáo xứ là bài nói về cuộc thương khó Chúa.

 

Khi đã vào Nhà Dòng, Têrêsa cũng được làm quen với Kinh Thánh.

 

Tại nhà nguyện, nữ tu Têrêsa ban ngày tham dự cầu nguyện nhiều lần bằng Thánh Vịnh và các bài Phúc Âm. Ban tối, cộng đoàn chuẩn bị cho phụng vụ ngày mai bằng những nguyện ngắm rút từ Phúc Âm và các Giáo phụ.

 

Tại nhà cơm, các nữ tu được nghe nhắc lại các bài đọc giờ kinh sáng.

 

Kinh Thánh giữ một chỗ đứng quan trọng trong đời sống cộng đoàn. Kinh Thánh vẫn tiếp tục đi sâu vào tâm hồn Têrêsa trong đời sống tư riêng.

 

Những sách Têrêsa đọc thêm trong đời tư là sách Gương Phúc Chúa Giêsu và vài tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá. Những sách này diễn tả Lời Chúa đã thời sự hoá các tâm hồn. Lời Chúa đã đổi mới họ, đã thiêu đốt họ, đã soi sáng họ, để họ biết thánh ý Chúa : “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con nuôi mãi, vì đó là hoan lạc của lòng con” ( Tv 119, 111).

 

Têsêsa tìm nhận được thánh ý Chúa từ Kinh Thánh. Kinh thánh đào tạo Têrêsa nên nhà truyền giáo.

 

  1. Thánh ý Chúa đào tạo Têrêsa nên người truyền giáo.

 

Nơi Têrêsa, Kinh Thánh được nghe, được đọc, được suy gẫm, được đón nhận. Hành trình đó đã biến đổi Têrêsa. Biến đổi lớn nhất là đào tạo Têrêsa nên nhà truyền giáo.

 

Nhà truyền giáo có mấy đặc điểm sau đây :

 

  1. Nhận biết mình hèn mọn

 

Nhận biết mình có nhiều giới hạn, có nhiều bất xứng, có nhiều yếu đuối, đó là một đòi hỏi về nhân bản, về đạo đức truyền thống của nhiều gia đình, và dân tộc. Đó còn là một lệnh truyền của Chúa Giêsu. Chúa ví sự nhận biết sự thực đó như hình ảnh trẻ nhỏ : “Thầy bảo thật các con, nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời” ( Mt 18, 3). Lời Chúa phán trên đây không là một lựa chọn, nhưng là một mệnh lệnh. Nó dứt khoát và quyết liệt, Têrêsa đã vâng phục mệnh lệnh này và đem ra thực hành. Với quyết tâm và với ơn Chúa, chị nữ tu sống khiêm nhường, nghèo khó, đơn sơ, phó thác, chôn vùi.

 

Càng bước sâu xuống thân phận hèn mọn, thánh nữ càng nghe rõ lời Chúa kêu gọi : “Nếu ai hết sức bé nhỏ, hãy đến cùng Ta” (Phương ngôn  9, 4). Được đến với Chúa trong tình trạng đó, thánh nữ cảm thấy ứng nghiệm lời Kinh Thánh nói : “Như người mẹ vuốt ve con mình, cũng thế, Ta cũng sẽ an ủi con. Ta sẽ ôm con trong lòng Ta, ta sẽ ru con trên đầu gối Ta” ( Is 66, 13).

 

  1. Nhận ra yêu mến là ơn gọi của mình.

 

Trong cuộc tự truyện, Têrêsa kể lại đã có lúc ngài đi tìm ơn gọi nào tốt hơn, để có thể phục vụ tốt đa Thiên Chúa và các linh hồn. Sau cùng ngài đã tìm thấy : “Ơn gọi của tôi là yêu mến”.

 

Chính Kinh Thánh đã soi sáng cho thánh nữ. Đặc biệt là thư thứ nhất của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô :

 

Giá như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chuẹ xoang xoảng

“Giá như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin, đến chuyển núi đời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.

“Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.

Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 1-13).

 

Khi Têrêsa đã chọn cho mình ơn gọi tình yêu, thì ngài dâng mình cho tình yêu Chúa. Từ đó ngài hết tình yêu mến Hội Thánh Chúa, kính trọng và nâng đỡ các người trong phẩm trật Hội Thánh, hiệp thông với mọi thành phần trong Hội Thánh trong tình con Chúa. Nhất là ngài cầu nguyện và hy sinh để cứu các linh hồn.

 

Chia sẻ trên đây thực là bé mọn, mong nó được góp phần nhỏ vào việc tạ ơn Chúa. Chúa đã làm bao việc lạ lùng nơi thánh nữ Têrêsa.

 

Hơn lúc nào hết, Hội Thánh Việt Nam hôm nay cần đến gương thánh nữ trên đường truyền giáo.

 

Truyền giáo đang được thực hiện dưới nhiều hình thức. Nhưng không phải mọi hình thức đều tốt như nhau. Thậm chí không phải bất cứ hình thức nào cũng tốt. Bởi vì có một vài hình thức tự mang tên truyền giáo, mà đang phản truyền giáo.

 

Có những sinh hoạt xã hội và vui nhộn có tính cách trợ giúp cho việc truyền giáo. Nhưng chúng ta đừng quên những giá trị căn bản làm nên việc truyền giáo. Không nên bớt. Càng không nên bỏ. Nhất là trong thời buổi ham hướng ngoại và duy vật hoá những gì là thánh thiêng.

 

ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Bài Giảng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cho Giờ Kinh Tối với các vị linh mục, tu sĩ, phó tế và chủng sinh ở Đến Mariazell ngày Thứ Bảy 8/9/2007

 

Cùng Quí Huynh khả kính trong Thừa Tác Vụ Linh Mục,

Quí Tu Sĩ Nam Nữ Sống Đời Tận Hiến,

Và Các Bạn thân mến,

 

Chúng ta đã cùng nhau đến Ngôi Đền Thờ khả kính Magna Mater Austriae ở Mariazell đây. Qua nhiều thế hệ, dân chúng đã đến đây nguyện cầu để xin Mẹ Thiên Chúa trợ giúp. Cả chúng ta nữa cũng đang làm như vậy hôm nay đây. Chúng ta muốn hợp cùng Mẹ Maria để chúc tụng sự thiện hảo bao la hải hà của Thiên Chúa cũng như để bày tỏ lòng tri ân cảm tạ của chúng ta đối với Chúa về tất cả những phúc lành chúng ta đã lãnh nhận, nhất là đại tặng ân đức tin. Chúng ta cũng muốn dâng lên cho Mẹ Maria những quan tâm chân thành của chúng ta, xin Mẹ chở che bảo vệ Giáo Hội, kêu xin Mẹ chuyển cầu cho tặng ân ơn gọi xứng đáng cho các Giáo Phận và các cộng đồng tu trì, van nài Mẹ hỗ trợ cho các gia đình và lời cầu bầu xót thương của Mẹ cho tất cả những ai mong thoát khỏi vòng tội lỗi mà được ơn hoán cải, và sau hết, ký thác cho việc chăm sóc từ mẫu của Mẹ thành phần bệnh nhân và già lão của chúng ta. Chớ gì Người Mẹ cao cả của Áo quốc và của Âu Châu mang tất cả mọi người chúng ta đến chỗ sâu xa canh tân  đức tin và đời sống!

 

Các bạn thân mến, là những vị linh mục và là thành phần nam nữ tu sĩ nam nữ, các bạn là những người tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô. Như hai ngàn năm trước Chúa Giêsu đã kêu gọi dân chúng theo Người, ngày nay Người cũng kêu gọi những con người nam nữ trẻ trung tiến bước theo ơn gọi của Người, được thu hút bởi Người và được tác động bởi lòng ước muốn hiến đời sống mình phục vụ Giáo Hội và giúp đỡ người khác. Họ can đảm theo Chúa Kitô, và họ muốn trở thành những chứng nhân của Người. Việc trở thành một người môn đệ của Chúa Kitô là việc làm hết sức liều mình, vì chúng ta liên lỉ bị đe dọa bởi tội lỗi, bởi thiếu thốn tự do và bởi việc đào ngũ. Bởi thế tất cả chúng ta đều cần đến ân sủng của Người, như Mẹ Maria đã lãnh nhận ân sủng của Người một cách trọn vẹn. Chúng ta hãy biết luôn luôn, như Mẹ Maria, nhìn lên Chúa Kitô, và làm cho Người thành chuẩn mức của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tham phần vào sứ vụ cứu độ phổ quát của Giáo Hội có Người là đầu. Chúa Kitô đang kêu gọi các linh mục, tu sĩ và giáo dân hãy đi vào thế giới, với tất cả những thứ phiền tạp của nó, và hãy hợp tác dể dựng xây Vương Quốc của Thiên Chúa. Họ làm điều này bằng rất nhiều cách thức khác nhau: bằng việc giảng dạy, bằng việc xây dựng cộng đồng, bằng các thứ thừa tác mục vụ khác, bằng việc cụ thể thực thi đức bác ái, bằng việc nghiên cứu và học hỏi khoa học được thi hành theo tinh thần tông đồ, bằng việc đối thoại với nền văn hóa chung quanh, bằng việc cổ võ công lý theo ý muốn của Thiên Chúa, và bằng việc cũng không kém phần quan trọng nữa là tĩnh lặng chiêm niệm Thiên Chúa Ba Ngôi và cùng chúc tụng Thiên Chúa trong cộng đồng của mình.

 

Chúa Kitô mời gọi các bạn hãy hợp với Giáo Hội “trên con đường hành trình của Giáo Hội băng qua lịch sử”. Người đang mời gọi các bạn hãy trở thành những kẻ lữ khách với Người và thông dự vào cuộc sống của Người, một cuộc sống mà cho đến ngày nay nữa bao gồm cả con đường Thập Giá và con đường của Đấng Phục Sinh xuyên qua Galilê của cuộc đời chúng ta. Thế nhưng, Người mãi mãi vẫn là một Chúa duy nhất, Đấng, qua một Phép Rửa duy nhất, đang kêu gọi chúng ta đến cùng một đức tin duy nhất. Tham phần vào cuộc hành trình này, như thế, có nghĩa bao gồm cả 2 điều: chiều kích Thập Giá – với những thất bại, đau thương, hiểu lầm, và thậm chí bị dể duôi và bách hại -, thế nhưng cũng bao gồm cả chiều kích cảm nghiệm sâu xa niềm vui trong việc phục vụ Người và trong niềm an ủi dồi dào xuất phát từ việc gặp gỡ Người. Như Giáo Hội, các giáo xứ, cộng đồng và tất cả mọi Kitô hữu đã lãnh nhận phép rửa, tìm thấy nơi cảm nghiệm của mình về Chúa Kitô tử giá và phụïc sinh được mạch nguồn cho sứ vụ của họ.

 

Ở tâm điểm của sứ vụ Chúa Giêsu Kitô và của hết mọi Kitô hữu đó là việc loan truyền Vương Quốc của Thiên Chúa. Việc nhân danh Chúa Kitô loan truyền Vương Quốc này có nghĩa là, đối với Giáo Hội, với các vị linh mục, với các tu sĩ nam nữ, cũng như với tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa, dấn thân hiện diện trong thế giới như là chứng nhân của Người. Vương Quốc của Thiên Chúa thực sự là chính Thiên Chúa, Đấng tự hiện diện giữa chúng ta và cai trị qua chúng ta. Vương Quốc của Thiên Chúa được xây dựng khi Thiên Chúa sống trong chúng ta và chúng ta mang Thiên Chúa đến cho thế giới. Các bạn làm thế khi các bạn chứng thực cho một “ý nghĩa” được bắt nguồn từ tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa và ngược lại với hết mọi thứ vô nghĩa và vô vọng. Các bạn đừng cùng một phía với tất cả những ai đang hăng say nỗ lực khám phá ra ý nghĩa này, cùng một bên với tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, với thành phần đang hành trình tiến tới cùng Thiên Chúa. Các bạn làm chứng cho một niềm hy vọng hướng đến lòng trung thành và mối quan tâm yêu thương của Thiên Chúa, ngược lại với hết mọi hình thức vô vọng, âm thầm hay tỏ hiện. Bởi thế, các bạn ở cùng một bên với những ai bị quằn quại trong bất hạnh và không thể thoạt nổi những gánh nặng của họ. Các bạn làm chứng cho một Tình Yêu ban mình cho nhân loại nhờ đó đã khống chế sự chết. Các bạn ở về phía tất cả những ai chưa bao giờ biết yêu, và những ai không thể nào tin tưởng cuộc sống. Nên các bạn chống lại với tất cả mọi hình thức bất công, kín đáo hay lộ liễu, cũng như chống lại sự khinh thường con người đang gia tăng. Nhờ đó, anh chị em thân mến, cả cuộc đời của anh chị em cần  phải trở thành, như Thánh Gioan Tẩy Giả, một chứng nhân cao cả sống động của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể. Chúa Giêsu đã gọi Thánh Gioan là “một ngọn đèn   cháy sáng” (Jn 5:35). Cả anh chị em nữa cũng phải trở thành những ngọn đèn như vậy!  Ánh sáng của anh chị em hãy chiếu soi vào xã hội của chúng ta, vào sinh hoạt chính trị và kinh tế, vào văn hóa và việc nghiên  cứu. Cho dù nó chỉ là một ánh sáng lung linh giữa rất nhiều ánh sáng mờ ảo nó cũng có được quyền lực và ánh rạng ngời của mình từ Sao Mai vĩ đại là Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng tỏa ánh sáng rạng ngời – Đấng muốn chiếu ngời qua chúng ta – và sẽ không bao giờ lịm tắt.    

  

Theo Chúa Kitô – nếu chúng ta muốn theo Chúa Kitô – thì theo Chúa Kitô nghĩa là mặc lấy cách trọn vẹn hơn nữa tâm trí và đời sống của Người; đó là những gì được Bức Thư gửi Kitô Hữu ở Philippi nói với chúng ta: “anh chị em hãy có cùng một tâm trí như Chúa Kitô!” (x 2:5). “Hãy nhìn lên Chúa Kitô” là đề tài của những ngày này. Khi nhìn lên Người, vị đại Sư của đời sống, Giáo Hội đã nhận thấy 3 đặc tính nổi bật nơi thái độ của Chúa Giêsu. Ba tính chất này – theo Truyền  Thống chúng ta gọi là “những lời khuyên của Phúc Âm” – đã trở thành những yếu tố riêng biệt của một đời sống dấn thân tận tuyệt theo Chúa Kitô, đó là khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Giờ đây chún g ta hãy suy nghĩ một chút về chúng.

 

Chúa Giêsu Kitô, Đấng giầu sang với chính sự sang giầu của Thiên Chúa, đã trở nên nghèo khổ vì chúng ta, như Thánh Phaolô cho chúng ta biết trong Thư Thứ Hai gửi Kitô hữu ở Corintô (x 8:9); đây là một lời phát biểu khôn dò, một lời phát biểu chúng ta cần phải luôn luôn để suy niệm sâu xa hơn. Và trong Thư gửi cho Kitô hữu Philippi chúng ta đọc thấy rằng: Người đã tự hủy ra như không; Người đã tự hạ và đã vâng lời cho đến chết trên Thập Giá (cf. 2:6ff). Đấng tự mình trở nên  nghèo nàn, đã gọi thành phần nghèo là “phúc đức”. Thánh Luca, trong đoạn về Phúc Đức, đã làm cho chúng ta hiểu rằng lời phát biểu ấy – cho thành phần nghèo nàn là có phúc – thật sự là nói về người nghèo, thành phần thực sự nghèo, trong dân Yến Duyên bấy giờ, một dân tộc có một phân cách kịch liệt giữa giầu và nghèo. Thế nhưng, Thánh Mathêu, trong đoạn của mình về Phúc Đức , đã giải thích cho chúng ta rằng nguyên tình trạng bần  cùng về vật chất mà thôi chưa đủ để bảo đảm được tình trạng  gần gũi với Thiên C húa, vì con tim có thể trở nên chai cứng và đầy những thèm muốn giầu sang. Bởi thế vấn  đề trở nên  rõ ràng đó là Kitô hữu thấy Chúa Kitô là Đấng đợi chờ kẻ nghèo, đợi chờ việc dấn thân của họ. Ai muốn theo Chúa Kitô cách dứt khoát cần phải từ bỏ những sản vật thể chất. Nhưng họ cần phải sống đức khó nghèo này một cách mô phỏng theo Chúa Kitô, nhờ đó được thanh thoát nội tâm cho tha nhân của mình. Đối với tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt linh mục chúng ta cũng như tu sĩ, cá nhân cũng như cộng đồng, vấn đề nghèo khó và thành phần nghèo khó cần phải trở thành đối tượng trong việc liên lỉ và triệt để kiểm điểm lương tâm. Nơi trường hợp riêng của chúng ta đây, một trường hợp cho thấy chúng ta không tệ lắm, chúng ta không phải là thành phần nghèo khó. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải đặc biệt suy nghĩ về cách làm sao chúng ta có thể sống trọn ơn gọi này một cách chân thành. Tôi xin để tùy việc kiểm điểm lương tâm của anh chị em cũng như của chúng ta về nó. 

 

Để hiểu được đúng ý nghĩa của đức thanh tịnh, chúng ta cần phải bắt đầu với chiều hướng tích cực của nó. Một lần nữa, chúng ta lại chỉ thấy đức này khi nhìn lên Chúa Kitô thôi. Đời sống của Chúa Giêsu có một chiều hướng lưỡng diện, ở chỗ, Người đã sống cho Chúa Cha và cho người khác. Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy Chúa Giêsu như một con người nguyện cầu, một con người thức cả đêm để đàm đạo với Cha. Qua việc nguyện cầu của mình, Người đã làm cho nhânm tính của riêng Người, và nhân tính của tất cả chúng ta, trở thành yếu tố cho mối liên hệ con cái của Người với Chúa Cha. Cuộc đối thoại này với Cha, như thế, trở thành một sứ vụ được liên lỉ canh tân đối với thế giới, đối với chúng ta.  Sứ vụ của Chúa Giêsu đã dẫn Người tới chỗ dấn thân một cách tinh tuyền và hoàn toàn cho con người nam nữ. Thánh Kinh cho chúng ta thấy rằng không có khi nào trong đời của mình Người đã bội phản nơi mối liên hệ của Người với kẻ khác, cho dù là một mảy may tư lợi hay vị kỷ. Chúa Giêsu đã yêu thương người khác trong Chúa Cha, bắt đầu từ Chúa Cha – bởi thế, Người đã yêu thương họ nơi hữu thể thực sự của họ, nơi thực tại của họ. Việc thông phần vào những niềm cảm thức này của Chúa Giêsu Kitô – trong mối hiệp thông hoàn toàn với Vị Thiên Chúa hằng sống cũng như trong mối hiệp thông hoàn toàn tinh tuyền này với kẻ khác, một cách trọn vẹn – việc thông phần vào tâm trí của Chúa Kitô ấy đã soi động nơi Thánh Phaolô một khoa thần học và một lối sống hợp với những lời nói của Chúa Giêsu về vấn đề độc thân vì Nước Trời (x Mt 19:12).

 

Linh mục và tu sĩ là những con người không xa cách với những mối tương quan liên vị. Đức thanh tịnh, ngược lại, có nghĩa là – và đây là những gì tôi muốn bắt đầu – một mối liên hệ sâu xa; tích cực mà nói thì nó là một mối liên hệ với Chúa Kitô sống động, và nhờ đó, với Chúa Cha. Thế n ên, bằng lời khấn độc thân than h tịnh, chúng ta không thánh hiến bản thân mình cho cá nhân  chủ nghĩa hay cho một đời sống cô lập; trái lại, chúng ta long trọng thề hứa sử dụng những mối liên hệ sâu xa chúng ta có thể và chúng ta lãnh nhận như một tặng ân vào việc phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa – từ đó phục vụ cả kẻ khác nữa – một cách hoàn toàn và dứt khoát. Nhờ đó linh mục và tu sĩ trở thành những con người nam nữ của niềm hy vọng: ở chỗ khi liên kết hết mọi sự với Thiên Chúa để chứng tỏ rằng Thiên Chúa là một sự gì đó chân thực đối với họ, là họ giành chỗ cho sự hiện diện của Ngài – sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa – tr ên thế giới này. Quí vị linh mục và tu sĩ thân mến,  anh chị em cần  phải thực hiện một đóng góp quan trọng, đó là, giữa tình trạng tràn lan những gì là tham lam, chiếm hữu, hưởng thụ và tôn thờ cá nhân, chúng ta lại đang nỗ lực tỏ ra một tình yêu vô vị kỷ đối với con người nam nữ. Chúng ta đang sống cuộc sống của niềm hy vọng, một niềm hy vọng được chúng ta phú thác vào bàn tay Thiên Chúa cái mãn nguyện của nó, vì chúng ta tin rằng Ngài sẽ làm cho nó nên  trọn. Điều gì sẽ xẩy ra khi lịch sử Kitô Giáo thiếu vắng đi những nhân vật và gương mẫu trổi vượt như thế? Thế giới của chúng ta sẽ ra sao nếu không có linh mục, nếu không có những con người nam nữ ở trong các hội dòng và cộng đồng sống đời tận hiến – những con người sống chứng thực cho một niềm hy vọng được thỏa nguyện vượt trên hết mọi ước vọng của con người và của một cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa siêu việt hơn tất cả mọi tình yêu nhân loại? Ngày nay thực sự thế giới đang cần đến chứng từ của chúng ta. 

 

 

Giờ đây chúng ta tiến đến đức tuân phục. Chúa Giêsu đã sống trọn cuộc đời của Người, từ những năm tháng ẩn dật ở Nazarét cho đến chính giây phút Người chết trên Thập Giá trong việc lắng nghe tiếng Chúa Cha, trong sự tuân  phục Cha. Chúng ta thấy điều này nơi cách thức sáng ngời ở Vườn Cây Dầu. “Xin hãy thực hiện ý của Cha chứ đừng ý Con”. Trong lời nguyện cầu này Chúa Giêsu nhận lấy nơi ý muốn làm con cái của mình cái chống cự ngạo mạn của tất cả chúng ta, và biến đổi việc nổi loạn  của chúng ta bằng đức tuân phục của Người. Chúa Giêsu là một con người của sự cầu nguyện. Thế nhưng, đồng thời Người cũng là một con người biết lắng nghe và tuân phục: Người đã tỏ ra “vâng lời cho đến  chết cho dù chết trên thập giá” (Phil 2:8). Kitô hữu đã luôn học biết từ cảm nghiệm này là, trong việc phó mình cho ý muốn của Cha, họ chẳng mất mát gì hết, thay vào đó, nhờ vậy, họ khám phá ra căn tính sâu xa nhất của họ và niềm tự do nội tại. Nơi Chúa Giêsu, họ đã khám phá ra rằng những ai đánh mất bản thân mình thì lại tìm thấy, và những ai cầm buộc mình bằng đức tuân phục vì Thiên Chúa và muốn tìm kiếm Thiên Chúa thì họ là những con người được tự do. Việc lắng nghe Thiên Chúa và tuân phục Ngài không phải là những gì bị kềm kẹp bề ngoài và đánh mất đi bản thân mình. Chỉ nhờ tham dự vào ý muốn của Thiên Chúa mà chúng ta mới đạt được căn tính thực sự của chúng ta. Thế giới của chúng ta ngày nay đây cần chứng từ của cảm nghiệm này chính vì nó mong muốn “hiện thực bản thân mình” và “chủ định bản thân mình”.

 

Romano Guardini đã thuật lại trong cuốn tự thuật của mình về cách thức, ở vào giây phút nghiêm trọng cho cuộc hành trình của mình, khi mà đức tin non dại của ông bị rung chuyển, làm thế nào quyết định nống cốt cho cả cuộc đời của ông – việc ông hoán cải – đã xẩy ra cho ông qua một cuộc gặp gỡ câu nói của Chúa Giêsu là chỉ có kẻ nào mất bản thân mình mới tìm lại được nó mà thôi (x Mt 8:34ff; Jn 12:25); không thể nào có vấn đề tái nhận thức bản thân mình hay hiện thực bản thân mình mà lại không bỏ mình, không đánh mất bản thân mình đi. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là: việc đánh mất bản thân mình đến đâu mới gọi là chính đáng? Tôi có thể hiến mình cho ai đây? Hiển nhiên là chúng ta hoàn toàn phó mình một khi chúng ta nhờ đó rơi vào bàn tay Thiên Chúa. Cuối cùng, chỉ ở nơi một mình Ngài chúng ta mới mất bản thân mình và chỉ ở nơi Ngài chúng ta mới tìm thấy bản thân của chúng ta. Thế nhưng vấn nạn nữa là Thiên Chúa là ai? Thiên Chúa ở đâu? Bấy giờ họ mới tiến đến chỗ hiểu rằng vị Thiên Chúa mà chúng ta phó mình cho Ngài là vị Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã trở nên hữu hình và gần gũi chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Thế nhưng, vẫn còn một vấn nạn nữa, đó là Chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu Kitô ở đâu? Làm thế  nào tôi có thể thực sự hiến thân cho Người? Câu trả lời mà Guardini đã tìm thấy sau nhiều tìm kiếm đó là thế này: Chúa Giêsu cụ thể hiện diện với chúng ta chỉ ở nơi Thân Thể của Người là Giáo Hội. Bởi thế, việc tuân  phục ý muốn của Thiên Chúa, tuân phục Chúa Giêsu Kitô, một cách thực sự và cụ thể, cần  phải là việc khiêm tốn tuân  phục Giáo Hội. Tôi nghĩ rằng cả điều này nữa cũng kêu gọi chúng ta hãy liên tục sâu xa kiểm điểm lương tâm. Tất cả được tóm lại trong lời nguyện cầu của Thánh I Nhã Loyola – một lời nguyện cầu đối với tôi bao giờ cũng quá cao cả đến nỗi tôi hầu như sợ đọc nó, tuy nhiên lại là một người nguyện mà, vì tất cả sự khó khăn của nó, chúng ta cần phải luôn luôn lập đi lập lại: “Ôi Chúa, xin hãy lấy đi và hãy nhận lấy tất cả niềm tự do của con, trí tưởng của con, kiến thức của con và trọn ý muốn của con. Tất cả những gì con có và tất cả những gì con sở hữu mà Chúa đã ban cho con: con xin dâng tất cả chúng cho Chúa; tất cả chúng đều là của Chúa, xin Chúa hãy sử dụng chúng theo ý Chúa. Xin chỉ cần ban cho con tình yêu của Chúa và ân sủng của Chúa; nhờ những điều ấy con sẽ được đủ giầu có và con sẽ chẳng còn thiết gì hơn”.

 

Anh chị em thân mến! Anh chị em gần trở về với những nơi anh chị em sinh sống và thực hiện hoạt động về lãnh vực giáo hội, mục vụ, thiêng liêng và nhân bản. Xin Mẹ Maria, Vị Đại Bầu Cử và là Mẹ của chúng ta, coi sóc và bảo vệ anh chị em và công việc làm của anh chị em. Xin Mẹ chuyển cầu cùng Con Mẹ là Chúa Giêsu Kitô của chúng ta cho anh chị em. Tôi cám ơn lời nguyện cầu và nỗi cực nhọc của anh chị em thực hiện trong vườn nho của Chúa, và tôi hợp cùng anh chị em cầu cùng Thiên Chúa bảo vệ và chúc phúc cho tất cả mọi anh chị em, và hết mọi người, đặc biệt là giới trẻ, cả ở Áo quốc đây cũng như ở các nước khác là những nơi có nhiều anh chị em từ đó mà đến. Tôi ưu ái ban phép lành cho tất cả anh chị em.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20070908_vespri-mariazell_en.html

 

Mục lục

Ðức Hồng Y Camillo Ruini nhận định về công cuộc rao giảng Phúc Âm tại Âu Châu.

Tin Budapest/Hungari (Zenit 24/09/2007) - Ðức Hồng Y Camillo Ruini đã dến tham dự Hội Nghị Quốc Tế về Tái Rao Giảng Phúc Âm, được tổ chức tại Budapest, Hungari, từ ngày 16 đến 22 tháng 9 năm 2007, với tư cách là Ðặc Sứ của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI. Ðây là Hội Nghị Quốc Tế về Rao Giảng Phúc Âm lần thứ V, được tổ chức tại Âu Châu, kể từ năm 2003 đến nay.

Trong cuộc phỏng vấn trên Ðài Phát Thanh Vatican, Ðức Hồng Y đã nói lên những nhận định tích cực của mình về Hội Nghị Quốc Tế này, như là dấu chỉ cho biết rằng Giáo Hội Công Giáo tại Hungari là một giáo hội sống động, với hàng giáo sĩ và giáo dân có tinh thần truyền giáo sâu xa.

Ðiều đánh động Ðức Hồng Y nhất, là Hội Nghị Quốc Tế về Rao Giảng Phúc Âm, được tổ chức tại thủ đô của một quốc gia đã nhiều năm sống trong chế độ cai trị toàn trị của đảng cộng sản, và do bởi một giáo hội đã trải qua thời gian dài chịu đau khổ. Tuy nhiên, theo Ðức Hông Y, để thực hiện công cuộc rao giảng Phúc Âm cho Âu Châu ngày nay, thì cần phải quan tâm đến các lãnh vực như sống đời cầu nguyện, sống các giá trị kitô giáo để nêu gương, vừa đồng thời thực hiện các giá trị kitô này trên bình diện văn hoá, sao cho Âu Châu có thể khám phá lại những "gốc rễ kitô" của mình. Ðức Hồng Y nhận định thêm như sau: "Chắc rằng có những thế lực hoạt động nhắm loại những người kitô ra ngoài lề xã hội. Nhưng may mắn thay cũng còn có những lực phản ứng lại, nhắm tái xác nhận tầm quan trọng của sự hiện diện kitô trong xã hội cũng như trong nền văn hoá. Tôi tin rằng các dân tộc âu châu còn ý thức về tầm quan trọng của Kitô giáo, không phải chỉ trong quá khứ, mà còn cả trong hiện tại và tương lai nữa. Cần tái lập một cuộc đối thoại giữa các dòng tư tưởng khác nhau và đức tin kitô, quanh những vấn đề căn bản đang vây lấy Âu Châu; chẳng hạn như vấn đề về căn cước âu châu, vấn đề về con người là ai, con người có phẩm giá bất khả xâm phạm hay không. Tôi hy vọng rằng tinh thần truyền giáo, như đã được khơi dậy lại từ biến cố cử hành Ðại Năm Thánh 2000 ở Roma, giờ đây được phổ biến trong toàn Giáo Hội công giáo tại Âu Châu, sao cho công cuộc Tái Rao Giảng Phúc Âm không chỉ là nguyên tắc, mà trở thành thực tại sống động.

 

(Ðặng Thế Dũng)

Ðêm Canh Thức Cầu Cho Ðức cố Giám Mục Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến.

Bắc Ninh, Việt Nam (23/09/2007) - Thời gian thấm thoát trôi đi thật nhanh. Nhìn lại, ngày ra đi của Ðức cố Giám Mục Giuse Maria đã tròn một năm. Những ngày gần đến ngày kỷ niệm một năm ngày Ðức Cha từ trần, cả giáo phận như đang sống lại những tình cảm, niềm xót thương của mình đối với người cha kính yêu.

Khắp nơi trong giáo phận: các giáo xứ, họ đạo, các cha xứ đều tổ chức những buổi cầu nguyện, dâng những thánh lễ trọng thể để cầu cho ngài.

Hôm ngày 23 tháng 4 năm 2007, con cái thuộc giáo phận Bắc Ninh từ khắp nơi xa xôi nhất của giáo phận như Ðồng Chương - Tuyên Quang, Vân Cương - Phú Thọ, Bắc Kạn... hay bà con Bắc Ninh từ Xóm Mới - Miền Nam, các gíao phận bạn và Hải Ngoại đều trở về nhà cha chung. Không khí toà giám mục hôm nay như được hâm nóng lên, bởi không khí trầm lắng sau những tháng ngày vắng bóng chủ chăn.

Tại khuôn viên Toà Giám Mục, vào lúc 20 giờ 30 phút cùng ngày, đêm canh thức tưởng nhớ và cầu cho người cha quá cố bắt đầu. Trong tiếng nhạc trầm buồn, đoàn rước di ảnh Ðức Giám Mục từ khu Toà Giám Mục tiến ra lễ đài. Dẫn đầu đoàn rước là thánh giá nến cao, trống - chiêng, tiếp đến là các nữ tu Tu Hội Hiệp Nhất, linh mục đoàn và đại diện các ban hành giáo và quí khách. Tới nơi, di ảnh Ðức Cha được đặt trước một hình trái tim rộng khoảng 3m được trang trí hình viền màu tím và màu đỏ ở giữa. Các đại diện lần lượt lên cắm nhang trước di ảnh Ðức cố giám mục.

Sau lời dẫn của một thầy phó tế, chương trình được bắt đầu bằng lời khai mạc của cha đại diện nội vụ Giuse Trần Quang Vinh. Ngay sau đó là phần trình chiếu phim với tựa đề: "Tưởng Nhớ Cha Hiền" do ban truyền thông của giáo phận đảm nhiệm. Ðoạn phim tóm lược những biến cố lịch sử giáo phận và cuộc đời mục vụ của Ðức cố giám Mục Giuse cống hiến cho giáo phận. Tiếp theo là phần cầu nguyện theo phương pháp Taize với chủ đề: "Hiệp Nhất", do các nữ tu, Tu Hội Hiệp Nhất chịu trách nhiệm. Trong tiếng nhạc nền du dương, nhè nhẹ, ánh nến cháy lung linh huyền ảo, cộng thêm lời thuyết minh ngọt ngào, trầm ấm... tất cả đã dẫn cho cộng đoàn dễ dàng chìm sâu vào bầu khí của buổi cầu nguyện. Kết thúc giờ cầu nguyện, bắt đầu từ các cha đại diện nội, ngoại vụ, linh mục đoàn và giáo dân lần lượt tiến lên cắm những ngọn nến cháy lên trước di của Ðức Cha Giuse. Trông từ xa, một hình trái tim đang bốc lửa chiếu những ánh sáng hồng lên trước di ảnh của Ðức cố Giám Mục. Một hình ảnh thật đẹp và ấn tượng, nói lên sự hiệp nhất, yêu thương.

Nhưng có lẽ ở trước nhan Thiên Chúa, Ðức Cha sẽ thấy vui hơn và đẹp hơn nhiều, nếu hình ảnh của những ngọn nến cháy sáng góp sức lại với nhau để tạo nên một khối lửa có sức mạnh đó lại là sự yêu thương và hy sinh của con cái ngài: biết tàn lụi mình đi, để đem lại ánh sáng, hơi ấm cho những người xung quanh, cho cộng đoàn, cho gia đình, đặc biệt hơn cho những người bất hạnh, cô đơn trong cuộc sống đang cần đến sự đỡ nâng của mỗi người. Ðó là lời chứng duy nhất và là việc làm làm đẹp lòng người ra đi nhất. Bởi suốt một đời giám mục, ngài luôn tâm niệm và nung nấu thực hiện một điều, đó là khẩu hiệu: "Xin cho mọi người nên một" (Ga 17, 21).

 

Dom. Nguyễn Thành Công

 

Mục lục

 

Dòng Đaminh Rosa Lima phát thuốc tại nhà thờ Cái Mây, Cái Bè Tiền Giang.


3g 45 phút sáng ngày 22 tháng 9 năm 2007, khi tu viện chưa báo chuông thức dậy, các bác sĩ đã đến nhấn chuông cổng nhà Dòng. Có chuyện lạ như vậy vì hôm nay các Soeur trong Ban Tông Đồ Dòng Nữ Đaminh Rosa Lima – Miền Mẹ Vô Nhiễm kết hợp cùng quý bác sĩ thiện nguyện thuộc các bệnh viện của Sài Gòn và Hội chữ thập đỏ quận Thủ Đức khám và phát thuốc miễn phí cho bà con vùng sâu và vùng xa- nhà thờ Cái Mây thuộc giáo phận Mỹ Tho huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang.

Soeur Đỗ Thị Hương cho biết, gia đình bác sĩ Tâm (công ty TNHH đầu tư & xây dựng Minh Sơn) đã ủng hộ hai chiếc xe chở đoàn bác sĩ, đặc biệt chính bác sĩ Tâm cũng là một trong hai tài xế.

Cha Phanxicô Trương Quý Vinh, cha sở nhà thờ Cái Mây giáo phận Mỹ Tho cho biết, giáo dân Cái Mây có khỏang 1100 người, nhưng hôm nay số bệnh nhân đến khám sẽ trên dưới 700 người, trong đó hai phần ba là người của giáo xứ và số còn lại là anh chị em lương dân sinh sống lân cận.

Với 10 bác sĩ, con số bệnh nhân cuối ngày được tổng kết là 630 người, chưa kể những bệnh nhân đến sau và những bệnh nhân xin thêm thuốc cho người ở nhà. Vị chi mỗi bác sĩ sẽ khám cho khoảng gần 70 người.

8g sáng, bác sĩ bắt đầu khám cho bệnh nhân đầu tiên, đúng 12 giờ trưa, đoàn dùng cơm và khám trở lại. Công việc của một ngày làm thiện nguyện viên vất vả và mệt mỏi như thế, nhưng khi tôi chứng kiến cảnh bác sĩ Nguyễn Thanh Trường khám cho bệnh nhân, mới thấy hết được sự tình nguyện rất cao độ của những người phục vụ. Bác bị đau làm sao? Mở đầu cho công việc khám bệnh với câu hỏi thân thiện, bệnh nhân dễ dàng giãi bày. Tui bị đau lâu rồi, khám bác sĩ họ nói tui bị viêm xoang, thường thì nhức đầu....Bác có bị đau ở đây không? Vừa hỏi bác sĩ vừa đưa tay ấn hai bên vai, hai tay ấn hai cánh mũi. Có, bác sĩ. Rồi như một người con tâm sự với mẹ về sức khỏe, vị bác sĩ nói bác bị cao huyết áp nữa đó, ăn nhạt thôi nha, bớt ăn trầu nữa nghe vì nó sẽ gây ngứa và ho nữa đó bác nha. Con không cho uống thuốc huyết áp nhiều đâu. Mỗi bữa uống cho con chừng này thôi nè. Những tiếng thưa vâng, dạ, con. ..với lối tiếp xúc ân cần của không chỉ riêng bác sĩ Trường mà còn cả của bác sĩ Tâm, Đính, Dũng, Thái, Khoan, Linh, Ly, Hiếu, Thu đã làm cho một ngày khám bệnh trở nên gần gũi và thân mật như mọi người trong một nhà.

Làm việc như thế, nhưng các bác sĩ rất vui vẻ khi tiếp xúc với bệnh nhân. Thỉnh thoảng đi qua đi lại người viết dòm chừng bác sĩ thấm mệt, hỏi một câu cho vui cửa vui nhà: Bác Dũng có mệt không ? Và tui nhận được một câu trả lời với nụ cười rạng rỡ: Hổng sao đâu Soeur ơi.

Cả đến cha sở cũng ân cần chạy tới chạy lui lo sắp xếp chỗ cho các bàn khám, cho bệnh nhân đi từ phòng khám sang chỗ nhận thuốc. Sau khi khám bệnh xong, cha sở lật đật lo thu dọn bàn ghế. Rồi cha thăm hỏi bà con đến khám bệnh, một người mục tử giữa đàn chiên mới được giao trách nhiệm cách đây 5 tháng đã thể hiện một tình thân mật, gần gũi tràn đầy sự quan tâm săn sóc và lo lắng. Có lẽ chỉ lo cho bà con giáo dân nên ngôi nhà thờ tương đối khang trang nhưng nhà xứ thì lụp xụp, che chắn tạm bợ. Một Soeur cắc cớ hỏi: Sao nhà cha xứ " xấu " thế? Đáp lại câu hỏi là nụ cười cố hữu trên khuôn mặt gầy gò và câu trả lời: Lo cho giáo dân trước còn mình thì...sao cũng đựợc. Điều tôi ao ước nhất bây giờ là nhà thờ có được cái hàng rào bao quanh, chớ cứ để không không thế này thì...cha bỏ lửng câu nói vì còn bận thăm hỏi bà cụ vừa được người nhà đẩy xe lăn tới.

Cách Sài Gòn khoảng 120 km, xe chạy 3 giờ đồng hồ, người hành khách nào lại không thấy mệt, nhưng giáo dân nhà thờ Cái Mây đã đón quý Soeur và đoàn bác sĩ với tất cả lòng hiếu khách, đơn sơ của những người miệt vườn quanh năm suốt ngày chỉ quen với việc cầm cuốc. Nói như thế vì khi đại diện cho bà con cảm ơn Nhà Dòng và bác sĩ, ông chủ tịch hội đồng mục vụ chỉ nhắc đi nhắc lại rằng: Chúng con cảm ơn quý Soeur, cảm ơn bác sĩ, chúng con hổng có đón tiếp như thế này bao giờ, chưa bao giờ có dzụ này, nên chúng con hổng biết mần chi...rồi ông cười hiền từ. Tất cả những điều đó làm cho mọi người quên cuộc hành trình xa xôi mới trải qua, quên đi nhưng mệt nhọc của việc thấp thỏm sợ ngủ quên không biết đường dậy sớm, quên đi sự vất vả của một ngày tiếp xúc và khám cho bệnh nhân.

Tấm lòng chân chất của bà con trao cho mọi người là những bịch nhãn và những trái bưởi da xanh cây nhà lá vườn trao tận tay cho từng bác sĩ như lời cảm ơn sâu đậm nhất.

Soeur trưởng đoàn Andre Đỗ Thị Hương cho biết, người dân ở đây đa số bị cao huyết áp, bao tử, tim mạch, các bệnh nhãn khoa, đau nhức và nhất là các bệnh ngoài da vì phải tiếp xúc với nước phèn. Khi hỏi một số người vì sao dân ở đây khi đến lấy thuốc cứ nằng nặc xin cho được lọ thuốc Maica và lọ nhỏ mắt. Họ trả lời vì nguồn nước ở đây không được tinh khiết, nước sinh hoạt dù có nước máy nhưng vẫn không đủ, hơn nữa mỗi buổi chiều việc mò cua bắt ốc, bắt hến đã trở thành thói quen lâu đời để cải thiện bữa ăn và kiếm thêm chút tiền tiêu vặt trong nhà đã làm cho đoi tay và chân bị nấm.

Giữa chừng buổi khám, cha sở cho mời Soeur Hương ra phòng khách có các cấp chính quyền xà Hòa Quý đến cảm ơn: Họ nói đây là lần đầu tiên chúng tôi được các Soeur đến khám bệnh cho người dân ở đây. Chúng tôi cảm ơn vì đoàn đã đã giúp cho bà con. Và chúng tôi mong một ngày thật gần, đoàn lại có những dịp khác đến giúp chúng tôi. Có lẽ đúng như thế vì muốn vào nhà thờ Cái Mây, xe chúng tôi phải quẹo vào con đường đất quanh co, nhỏ vừa đủ cho một chiếc xe hơi, đường khó đi nhưng với tài xế có " tay lái lụa", chúng tôi vượt qua con đường " chông gai". Do đó việc thông thương có vẻ khó khăn.

Trong dịp này Dòng cũng trao tặng cho các em thiếu nhi trong xứ 300 cái lồng đèn, 300 bánh trung thu, một số đèn cầy và tập vở cho thiếu nhi trong xứ chuẩn bị cho ngày Tết Trung Thu sắp tới.

Một ngày trong công việc phục vụ và yêu thương, dù đường xa và mệt mỏi, nhưng khi xe vừa về đến Tu Viện chúng tôi được hòa với những lời kinh Chiều của các chị em. Những lời Kinh và lời cầu nguyện của cộng đoàn là nguồn trợ lục cho những chuyến đi và lời kinh tạ ơn của việc phục vụ, theo tinh thần cha thánh Đaminh: chiêm niệm và hoạt động.

Xin thay lời cho bà con giáo dân Cái Mây cảm ơn quý vị ân nhân đã cùng nhà Dòng chia sẻ với bà con. Dù chỉ là những viên thuốc bé nhỏ, một ít quà bánh nhưng ở đó chứa đựng tình nghĩa sẻ chia và tinh thần phục vụ, yêu thương.


Sr. Minh Nguyên

Mục lục

 

THƯ CÁM ƠN CỦA ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VINH

 

TÒA GIÁM MỤC XÃ ĐOÀI

Nghi Diên, Nghi Lộc, Nghệ An

Đt : 038.3611.845

Email :tgmxadoai2004@yahoo.com



Ngày 25 tháng 9 năm 2007

THƯ CÁM ƠN

Kính gửi : Quý Đức Hồng y, Quý Đức cha, Quý Cha, các Dòng tu, giáo xứ, tổ chức, cá nhân, quý vị hảo tâm gần xa, trong nước và ngoài nước,

Cơn bão số 2 đã gây mưa lũ rất to, gây thiệt hại lớn tại một số vùng trên địa bàn 2 tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, nhiều người chết; nhiều nhà cửa, của cải gia súc, gia cầm bị nước cuốn trôi; hoa màu, mùa màng đều mất trắng.

Trước cảnh khốn đốn do thiên tai, chúng con đã được nhiều tổ chức, nhiều người quan tâm kịp thời giúp đỡ.

Qua lá thư này, chúng con hết lòng cám ơn quý Đức Hồng y, quý Đức Cha, quý Cha, quý Dòng tu, các giáo xứ, các tổ chức từ thiện, các cá nhân xa gần trong nước cũng như ngoài nước đã dành cho chúng con tình thương đặc biệt.

Tính đến nay, Toà giám mục, Ban bác ái - xã hội của giáo phận chúng con đã nhận :

- Trên 930.000.000 đồng tiền mặt

- 30.000 USD

- 11 tấn gạo

- 87 bao quần áo mới.

Ngoài ra còn có một số giáo phận, nhiều giáo xứ, tổ chức, cá nhân đã tới các giáo xứ và từng gia đình bị thiệt hại để trực tiếp cứu trợ.

Số tiền trên Ban bác ái giáo phận đã mua gạo, mì gói, muối, sách vở, các vật dụng xong chảo, mùng màn, chăn chiếu... trực tiếp phân phát cho những người cần giúp đỡ, không phân biệt lương giáo. Và số gạo, áo quần cũng đã tới tận tay bà con cần sự trợ giúp.

Không thể nói hết lên đây những tâm tình và lòng biết ơn của bà con trước tình thương của quý Đức Hồng y, quý Đức Cha, quý Cha và quý vị.

Nhờ sự giúp đỡ kịp thời đó, nay bà con đã dần dần ổn định cuộc sống. Chúng con cũng đang tiến hành giúp dựng lại nhà cửa, mua sắm trâu, bò, phân giống... để bà con làm mùa ổn định cuộc sống ngày mai.

Chúng con kính xin quý Đức Hồng y, quý Đức Cha, quý Cha và quý vị tiếp tục cầu nguyện và giúp đỡ chúng con.

Dám xin Chúa ban muôn ơn lành của Ngài cho những ai đã làm ơn cho chúng con.

+ Phaolô Maria Cao Đình Thuyên

Giám mục Giáo phận Vinh

Mục lục

Thư mục vụ Giáo phận Hải phòng nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi 2007

 

Kính gửi các Cha, các Tu Sĩ, các Ban Hành Giáo và Anh Chị Em Giáo hữu,

Trong truyền thống xa xưa của Giáo phận nhà, mỗi khi tháng Mân Côi về, chúng ta là con cái của Đức Mẹ, lại cảm thấy vui mừng hân hoan, cùng với những điệu ca vãn quen thuộc ...

Vuờn Rô-sa bao quanh trái đất

Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền

Thử  truy cùng cho đến căn nguyên

Xem ai đã gây nên vậy tá?

Những điệu ca vãn trên đây diễn tả vẻ đẹp thiêng liêng phong phú của Giáo Hội, đồng thời mời gọi chúng ta ôn lại lịch sử, vào thế kỷ 13, khi Giáo Hội phải đối diện với nhiều phong trào lạc giáo nguy hiểm. Chính trong bối cảnh này, Đức Mẹ đã truyền cho Thánh Đa-minh Tràng hạt Mân Côi như một phương thế làm cho Giáo Hội được hiệp nhất và bình an.

Việc lần hạt Mân Côi được chính Đức Mẹ kêu mời khi Người hiện ra ở Lộ Đức và Pha-ti-ma. Các Đức Giáo Hoàng, trải qua mọi giai đoạn khác nhau của lịch sử, cũng nhắc nhở kêu gọi các tín hữu hãy siêng năng lần hạt. Kinh Mân Côi ngày nay còn được cổ võ và tổ chức với tầm mức quốc tế. Quả vậy,  từ năm 1996, với sáng kiến của một giáo dân người Mê-hi-cô, ngày 7 tháng 10 hằng năm được gọi là “Ngày Thế giới đọc Kinh Mân Côi”. Vào ngày này, nhiều nước trên thế giới đã tập hợp những cộng đoàn đông đảo để lần hạt chung với nhau tại những sân vận động, những quảng trường, những nhà thờ chính tòa, ngay cả những nhà tù, những bệnh viện hay những nơi công cộng khác.

Khi lần hạt là chúng ta cùng với Mẹ Maria suy niệm Lời Chúa và tôn vinh tình thương bao la của Ngài. Trong tâm tình ấy, chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ bước vào tháng Mân Côi và cầu xin cho chúng ta được trưởng thành hơn trong đời sống đức tin.

1- Cùng với Đức Mẹ, chúng ta hãy đi tìm Chúa : tìm Chúa là xác tín sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời mình. Tìm Chúa cũng là học hỏi để biết Chúa. Nhờ biết Chúa, chúng ta sẽ yêu mến Chúa hơn. Đức Maria, từ khi thưa “Xin vâng” với sứ thần trong ngày truyền tin, đã được Con Thiên Chúa hiện diện cách kỳ diệu trong lòng mình. Niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa đã giúp Mẹ vượt lên những khó khăn thử thách, nhất là vào giờ phút đau thương Mẹ đứng bên thập giá trên đồi Can-vê. Khi cảm nghiệm những điều kỳ diệu của Thiên Chúa đã thực hiện, Mẹ Maria đã thốt lên: “ Từ nay mọi người sẽ khen rằng tôi có phúc, vì Đấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Ngài quyền năng và Danh Ngài là Thánh ” (Lc1 48-49).

2- Cùng với Đức Mẹ, chúng ta hãy gặp gỡ Chúa : các họa sĩ Công giáo thường trình bày Đức Maria đang cầu nguyện khi Sứ Thần Ga-bri-en đến truyền tin Ngôi Lời nhập thể. Sau này, tất cả những gì liên quan đến cuộc đời Đức Giêsu đều được Đức Mẹ lưu giữ: “ Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng ” (Lc 3 51). Chính lời cầu nguyện đã soi sáng cho Mẹ thấy sứ mạng cao cả là cộng tác với Đấng Tối cao trong công cuộc cứu độ.  Tại nhà tiệc ly, Mẹ Maria cũng sốt sắng cầu nguyện với các Tông đồ trong lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến. Chúng ta hãy học cùng Mẹ trong tâm tình cầu nguyện, để qua đó chúng ta được gặp gỡ Chúa, tâm sự với Ngài và xin Ngài soi sáng cho những gì chúng ta cần phải làm.

3- Cùng với Mẹ, chúng ta hãy đi  theo Chúa : Đức Maria được xưng tụng là “người môn đệ trọn lành của Đức Giêsu”. Là Mẹ của Đức Giêsu, Đức Maria cũng là môn đệ của Người. Là Mẹ, Đức Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời trong lòng dạ. Là người môn đệ, Mẹ đã luôn bên cạnh con mình để lắng nghe. Mẹ còn hiện diện để cầu bầu, như tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ đã xin Chúa làm phép lạ cho nước biến thành rượu. Mẹ Maria là hình ảnh và mẫu mực của các nhà truyền giáo, khi Mẹ “vội vã lên miền sơn cước” để loan báo Tin Mừng cho bà I-sa-ve, đồng thời thăm viếng và giúp đỡ bà. Trong tất cả những người theo Chúa Giêsu và nghe lời Người, Mẹ Maria là người  môn đệ đầu tiên đã lắng nghe và thực hiện lời ấy. Cũng như Mẹ Maria, các môn đệ đã nhiệt thành theo Chúa Giêsu khi nghe tiếng Người gọi.  Gia-cô-bê, Gioan là những người dân chài, cũng như  Mát-thêu, người thu thuế, đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà theo Chúa (Mt 4,21-22; Mt 9,9).

Thưa các Cha và Anh Chị Em, Tìm Chúa, Gặp Chúa và Theo Chúa, đó chính là những chỉ dẫn mục vụ trong Năm Giới Trẻ của Giáo phận chúng ta. Đó cũng là tiến trình  thiêng liêng chuẩn bị cho Đại Hội Giới Trẻ Giáo Tỉnh Miền Bắc sẽ được tổ chức tại Hải Phòng trong hai ngày 8 và 9 tháng 11 năm nay. Các Bạn Trẻ trong toàn Giáo phận đã nhiệt tình hưởng ứng tinh thần này bằng việc học giáo lý, tham dự các cuộc rước Thánh giá và cộng tác làm việc từ thiện. Nhờ những hoạt động đạo đức này, nhiều Bạn Trẻ đã được gặp Chúa và đang nỗ lực theo Ngài. Tuy vậy, Tìm Chúa, Gặp Chúa và Theo Chúa  là một hành trình dài, phải được thể hiện trong suốt cuộc đời của người tín hữu, cho đến khi chúng ta thực sự được gặp Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu. Những việc chúng ta đang làm sẽ mang lại  nhiều hiệu quả hơn nếu chúng ta thực hiện với tâm tình của Mẹ Maria và với lòng cậy trông vào  lời cầu bầu của Người.

Lễ Đức Mẹ Mân Côi Quan Thày Giáo phận năm nay cũng là dịp truyền chức của 6 tân Linh mục. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các tân chức được luôn trung tín với lý tưởng đã chọn, để nhờ đó họ trở nên những tông đồ nhiệt thành, cộng tác vào sứ vụ truyền giáo trong Giáo phận. Với 6 tân Linh mục được phong chức dịp này, chúng ta sẽ có 49 Linh mục triều, cùng với một số Linh mục Dòng đang cộng tác truyền giáo trong Giáo phận chúng ta.

Nguyện xin Mẹ Mân Côi luôn cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta được trung thành như Mẹ trong suốt cuộc đời. Kính chúc các Cha và Anh Chị Em luôn an bình và tràn đầy Hồng ân Thiên Chúa.

                                                        Hải Phòng ngày 14 tháng 09 năm 2007

                                                                 +Giuse Vũ Văn Thiên

                                                                 Giám mục Hải Phòng

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Lời Chủ Chăn tháng 10.2007

Nhân quyền và bổn phận học hỏi Giáo Huấn của Giáo Hội về xã hội

 

 Dẫn nhập

 

  Nhiệm vụ dấn thân cho nhân quyền đặt ra 2 bổn phận ưu tiên cho người Kitô hữu.  Ưu tiên một là cầu nguyện nhằm rèn luyện cái tâm lương thiện.  Ưu tiên hai là học hỏi Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội nhằm rèn luyện cái tâm sáng suốt.  Cả hai ưu tiên đều nhằm phát huy nhân quyền trước hết nơi bản thân với ý thức tôn trọng nhân quyền của mọi người. 

     

Nói cách khác, người Kitô hữu chân chính có bổn phận cầu nguyện và học hỏi trước khi hành động cho nhân quyền, vì lẽ cầu nguyện và học hỏi giúp cho con người hành động với tâm hồn bình an, sáng suốt, hành động với thái độ tôn trọng sự thật và công bằng, với tình bác ái huynh đệ, đồng thời tránh hành động theo động cơ của lòng tham sân si, của hận thù, tránh chạy theo thói đời mang quán tính đối kháng, loại trừ hoặc sát hại lẫn nhau, cũng là một hình thức xúc phạm nhân quyền của nhau. 

     

Tháng trước tôi đã nói về bổn phận cầu nguyện.  Tháng này, tôi đề cập đến việc học hỏi Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.

 

 

 I.  Tình hình biến chuyển trên đất nước Việt Nam

 

 1.  Khắc phục hậu quả 30 năm chiến tranh.   Kể từ năm 1975 đến nay, Việt Nam lo khắc phục hậu quả của cuộc chiến 30 năm, không những về cơ sở vật chất, mà cả về con người:  hơn một triệu thương binh, lối hai triệu trẻ mồ côi, hai triệu người goá bụa, năm triệu người tàn tật. 

     

Ngoài ra, một vết thương khác, do chiến tranh tương tàn kéo dài nhiều thập niên gây ra, hằn sâu trong lòng dân tộc, trong tâm can của nhiều người.  Nó đã tạo ra sự chia rẽ, đã đặt đồng bào và đồng loại trong thế đối kháng và loại trừ lẫn nhau.  Một thời nó đã cô lập hoá đất nước đối với cộng đồng thế giới, làm suy yếu sức sống của dân tộc. 

     

Nhiều thành phần trong cộng đồng dân tộc, khi bừng tỉnh bên bờ vực thẳm diệt vong, đã có những nỗ lực hàn gắn vết thương, cùng nhau tiến bước trên con đường hoà giải, mở rộng cửa nhà, hội nhập vào thế giới toàn cầu hoá hôm nay,  xây dựng lại tình đoàn kết như một sức mạnh phát triển đất nước.  Dầu vậy, xem ra vết thương đó vẫn còn rỉ máu, vẫn còn cần được quan tâm chăm sóc, cần có thêm những biện pháp chữa trị thích hợp và có hiệu quả hơn. 

 

 2.  Chuyển biến từ kinh tế tập trung đến kinh tế thị trường.  Trong hai thập niên vừa qua, diễn ra sự chuyển dịch từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, với những hậu quả tích cực và tiêu cực cho gia đình và xã hội.  Đời sống kinh tế xã hội phát triển đáng kể.  Tuy nhiên, sự phát triển này thiếu tính toàn diện và đồng đều, cộng thêm sự thiếu kinh nghiệm, dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực. 

     

Một số hậu quả tiêu cực xuất hiện rõ nét trong gia đình và xã hội, như  - làn sóng di dân nhiều triệu người từ nông thôn lên thành thị, - sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rộng lớn, - sự suy thoái đạo đức ngày càng trầm trọng, - cộng thêm sự phát sinh ra nhiều loại tệ nạn xã hội (ăn gian, lừa dối, tham nhũng, bạo lực trong gia đình, phá thai, ly dị, mại dâm, buôn người, ma túy, dịch HIV/AIDS).  Dù có những biện pháp tích cực chữa trị, những tiêu cực đó cùng dịch HIV/AIDS  tiếp tục lan rộng trên cả nước.

 

Những hậu quả tiêu cực đó làm đảo lộn trật tự những giá trị căn bản nơi truyền thống văn hoá và đạo đức trong gia đình cũng như trong xã hội, góp phần hình thành nền văn hoá sự chết, đi ngược chiều với nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương vốn là con đường đưa đến phát triển đất nước, thăng tiến đời sống gia đình và cộng đồng dân tộc.

 

 3.  Những biến chuyển liên hệ đến các tôn giáo.   Do những lý do lịch sử cũng như do quan điểm và định kiến, Nhà Nước trong những thập niên qua, có thái độ khá tiêu cực đối với các tôn giáo.  Do đó các tôn giáo đều gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong các sinh hoạt của mình.  Từ khi VN mở ra với thế giới và chuyển sang kinh tế thị trường, tình hình dần dần được cải thiện.  Trước kia, các tổ chức tôn giáo bị coi như một thế lực chống phá Nhà Nước, dần dần được nhìn nhận như một sức mạnh tinh thần góp phần xây dựng và phát triển đất nước, thăng tiến đời sống gia đình, xã hội và cộng đồng dân tộc. 

     

Dầu vậy, hiện nay các tổ chức tôn giáo vẫn còn phải chịu một số hạn chế và bất công.  Theo các phương tiện truyền thông xã hội, công quyền cũng nhận thấy điều đó, và ngày nay đồng bào và đồng loại nhiều nơi trên thế giới đang nóng lòng thấy Nhà Nước sớm khắc phục những bất công đối với các tổ chức tôn giáo cũng như nhiều thành phần khác trong cộng đồng dân tộc.

 

 II.  Định hướng của Giáo huấn của Giáo Hội công giáo về xã hội

 

 1.  Những giá trị nền tảng .  Triển khai Lời Chúa dạy và giáo huấn của Công đồng Vatican II cùng kinh nghiệm qua các chế độ trong lịch sử phát triển của loài người, Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội đã được hình thành và trải dài qua nhiều thế kỷ.  Nay Giáo huấn đó được tổng kết nhằm làm nổi bật những giá trị tinh thần và đạo đức, như sự thật và công bằng, tình huynh đệ đại đồng và tình liên đới, lòng yêu thương bác ái xây dựng hoà bình và phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người.  

     

Mục đích tổng kết Giáo huấn là để làm nền tảng cho việc phát huy nhân quyền, cũng như cho công cuộc xây dựng và phát triển vững bền đất nước và cộng đồng dân tộc.

 

 2.  Những chuẩn mực cho công cuộc phát triển toàn diện và vững bền.  Những giá trị tinh thần và đạo đức trong Giáo huấn nêu trên là những chuẩn mực cho công cuộc phát triển trong mọi lãnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, gia đình, giáo dục, mà cùng đích là đưa đến phát triển con người toàn diện.  Đồng thời những chuẩn mực đó cũng nhằm giúp cho công quyền cũng như mọi tổ chức kinh tế xã hội tránh con đường mòn cũ trong lịch sử là biến con người thành phương tiện sản xuất, thành công cụ phục vụ cho những tham vọng của những người nắm giữ quyền hành, thế lực và tài lực trong xã hội.

 

3.  Trách nhiệm của các thành phần trong Giáo Hội công giáo là đưa những giá trị nền tảng từ Giáo huấn nêu trên vào đời sống gia đình và xã hội nhằm góp phần xây dựng một cộng đồng nhân loại mới, một cộng đồng sống trong sự thật và công bằng, trong hiệp nhất và bình an, trong yêu thương và phục vụ cho sự sống và phẩm giá của mọi người anh em đồng bào và đồng loại là con một Cha, là anh em một nhà. 

 

 III.  Những áp dụng thực hành

 

 1. Bản Tổng lược Giáo huấn.  Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình trong thời Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận làm Chủ tịch đã khởi công tổng hợp giáo huấn của Giáo Hội trải dài nhiều thế kỷ thành một bản Tổng lược Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.  Nay bản Tổng lược đã được hình thành và được dịch sang nhiều ngôn ngữ, cả Việt ngữ. 

 

 2. Chương trình đào tạo và huấn luyện.   Nay Giáo huấn này cần được đưa vào chương trình đào tạo và huấn luyện rộng rãi mọi thành phần Dân Chúa và mọi người thiện tâm, đặc biệt những người đang có mặt trong mọi lãnh vực giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị. 

   

  Việc đào tạo và huấn luyện nầy trước hết nhằm mở đường cho họ trở nên muối, men, ánh sáng cho những giá trị nền tảng trong xã hội, kế đến nhằm tạo khả năng cho họ góp phần vừa kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương, vừa phát triển vững bền đất nước, đưa con người, gia đình, cộng đồng xã hội đi đến sự sống dồi dào, an lành và hạnh phúc lâu dài.

 

 

 29.8.2007,  ngày lễ kính Thánh Gioan Baotixita

chịu xử trảm vì sự thật và công bằng.

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

  Hồng Y Tổng Giám mục

 

Mục lục

 

ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

(Mt 18,2-4)

Ngày xưa còn bé, lúc tôi vừa chân ướt chân ráo vào tiểu chủng viện, người ta đã trao đến tôi cuốn “Một tâm hồn” của thánh Têrêsa như là cuốn sách phải đọc, để học đời sống thiêng liêng. Thú thực, trong mắt nhìn của cậu bé ham chơi là tôi lúc ấy, cuốn “Một tâm hồn” quả là một cuốn truyện vui với những trò chơi tuyệt vời. Từ chuyện đi ngang về tắt chui qua bụng ngựa đến chuyện ngắm mãi không chán ống kính vạn hoa, từ chuyện nhìn trời buổi tối bỗng thấy sao kết tên mình đến chuyện nhìn đất lượm lên một cọng rác cũng vòi Chúa giải thoát cho một linh hồn. Tất cả đều là chuyện vui của một cô bé ưu được nuông chiều.

Nhưng lớn lên có dịp nghiềm gẫm nhiều hơn, tôi mới ngộ ra rằng: Đằng sau những trò tưởng là trẻ con “mít ướt” ấy lại là cả một tâm tình tự nhiên của trực giác tuổi thơ, cộng thêm những thao thức vươn lên của ước mơ xuân trẻ, và đi đi về về trên những nẻo đường vừa thơ vừa trẻ ấy là nhấp nhô những cây thánh giá của hy sinh đong đầy hy vọng. Đó là đường nên thánh của Têrêsa.

1. Đường nên thánh của Têrêsa được dệt bằng những tâm tình tự nhiên tuổi thơ.

Người ta vẫn quen gọi đây là “đường thơ ấu thiêng liêng”, nghĩa là đường nên thánh khởi đi từ những tâm tình tuổi nhỏ. Rất đẹp và rất thơ. Một phương cách tuy không mới tuyệt đối, vì Chúa Giêsu đã gợi lên từ xưa: “Ai không nên như trẻ nhỏ sẽ chẳng được vào Nước Trời”, nhưng chính Têrêsa đã đem đến cho phương cách này một nét hấp dẫn mới và một độ rộng mới phù hợp trong tầm với của mọi người, dù là giáo sĩ hay tu sĩ hoặc giáo dân, dù là trí thức bụng đầy chữ nghĩa hay là bình dân ít học. Hết thảy đều có thể sử dụng phương cách này hoặc đi trên con đường này. Người Mỹ gọi xa lộ của họ là freeway, nghĩa là đường tự do ra vào, không phải thuê bao, không cần mua vé. Đường thơ ấu thiêng liêng cũng thế, là freeway mở ra cho hết mọi người.

“Nên như trẻ nhỏ” là phương cách của Phúc âm. Nhưng nên như thế nào lại là điều thuộc về phong cách của Têrêsa. Thật vậy, qua chuyện “Một tâm hồn”, thánh nữ đã vận dụng rất tự nhiên mọi biến cố xảy đến trong đời để, phải nói là, nũng nịu và vòi vĩnh Chúa dẫn mình trên đường nên thánh.
Ai trong chúng ta cũng biết tình yêu là điều đáng giá nhất trên đời, và chẳng cần bảo ai, người ta vẫn cứ thi nhau làm những việc càng lớn càng tốt để diễn tả tình yêu ấy. “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Có biết đâu tình yêu xét cho cùng cũng là điều thuộc về trật tự của tấm lòng, thế nên, khi có tấm lòng lớn, thì dù việc làm có khiêm tốn đến đâu đi nữa, cũng vẫn là một tình yêu đầy đặn vuông tròn. Nhất là khi tấm lòng ấy xin dành cho Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Đó là nét đầu tiên của đường thơ ấu Têrêsa.

2. Đường nên thánh của Têrêsa cũng được ghi dấu bằng những ước mơ tươi trẻ.

Nếu “giống như tuổi thơ”, Têrêsa đã tham lam ôm lấy mọi biến cố trong đời, dù vui hay buồn, dù lớn hay bé. dù hữu ý hay vô tình, dù được người khác biết đến hay không, để làm thành vốn liếng sinh lời trong tình yêu Chúa, thì độ bền của nẻo đường thiêng liêng ấy lại ngày từng ngày làm bằng những thao thức trẻ trung táo bạo.

Trẻ trung ở chỗ thánh nữ luôn bị thiêu đốt bời những ước mơ, nói theo kiểu Sea Games, là mơ “cao hơn xa hơn và nhanh hơn” trên đường thánh đức. Có lần Têrêsa muốn yêu Chúa thật nhiều như chưa bao giờ Chúa được yêu như thế. Lần khác thánh nữ lại muốn lên đường truyền giáo thật dài như đường đi của loài người mọi thời gom góp lại.

Táo bạo ở chỗ thánh nữ dù sống trong một đan viện kín cổng cao tường, như Đan viện Cát Minh Saigon đây, Ngài cũng không chịu dừng lại đôi cánh ước mơ, mà còn vươn lên những đỉnh cao thao thức, như khi một mình dưới ánh sáng Lời Chúa trong thơ 1 Côrintô chương 12, Têrêsa đã reo lên vì khám phá ra rằng: từ nay trong Giáo hội mình sẽ là trái tim, trong trái tim mình sẽ là tình yêu, và trong tình yêu mình được ở trong lòng Thiên Chúa là Cha.

Thế đó, ước mơ trẻ trung và táo bạo, như con ốc nhỏ mơ uống cả đại dương tình thương Thiên Chúa, để dù phận ốc phải chôn vùi ở đáy sâu thầm lặng, cũng vẫn hiên ngang có Chúa gần kề, và dù có phải chết trong kiếp người đi nữa, cũng vẫn tin yêu phó thác, vì như Têrêsa đã quả quyết lúc lâm chung: “Tôi không chết, nhưng tôi đi vào cõi sống”.

3. Đường nên thánh của Têrêsa còn là đường ngã nghiên bóng cây Thánh giá.

Đẹp như tuổi thơ, đẹp như ước mơ, nhưng trên nẻo thiêng liêng ấy, Têrêsa đã gặp không ít khó khăn. Có điều là ngài chủ động tiếp nhận như Thánh giá gieo mầm cứu độ.

Chín tháng đầu tiên trong nhà kín Lisieux, Têrêsa đã cảm nhận thật nhanh hương vị Thánh giá, tức là cái giá phải trả cho sự thánh đức. Đó là những muộn phiền về gia cảnh cha già neo đơn (nhớ nhà); đó cũng là những chịu đựng trước ánh nhìn của người khác, và đó còn là những vật lộn với chính bản thân khi phải trút bỏ tất cả để thích nghi được với cuộc sống chung. Về giai đoạn này, Têrêsa tâm sự là ngài đã gặp nhiều gai nhọn hơn hoa hồng, ngài viết: “Đau khổ đã giang tay đón tôi và tôi đã gieo mình vào khổ đau với lòng yêu mến”.

Nhưng Thánh giá thường xuyên hơn cả trong suốt chín năm tu trì của ngài chính là những nỗi đau âm ỉ trong tâm hồn kia, như thấy mình bất toàn kiểu Phêrô: “Tinh thần thì mau lẹ nhưng xác thịt lại yếu đuối”, như thấy mình bị bỏ rơi không niềm an ủi kiểu “con tim vô tình”, như thấy mình mỏi mệt nản lòng kiểu “hai môn đệ trên đường Emmaus”. Song cũng khởi đi những Thánh giá trong lòng vốn nhiều thao thức ấy, thánh nữ khám phá ra tâm tình phó thác làm thành ý tưởng chủ đạo giúp ngài nên thánh, đó là “muốn những gì Chúa muốn”.

Đã dành, ai cũng có thể gặp đau khổ cách này cách khác, nhưng biết đón nhận đau khổ theo phong cách Têrêsa bằng niềm đam mê dâng hiến nguyện cầu truyền giáo, thì quả là đã nhận lấy Thánh giá một cách hiệu quả nhất. Đó là đường Thánh giá của hy sinh và cũng là đường Thánh giá của hy vọng.
Tóm lại, đường nên thánh của Têrêsa là một tâm tình tuổi thơ, là một ước mơ xuân trẻ, và cũng là chia sẻ tình yêu Thánh giá. Đó là trực giác một thời, nhưng cũng là bền bỉ một đời. Và trên hết là Hồng Ân Thiên Chúa. Nẻo đường ấy rất thênh thang hôm nay được đặt vào tầm tay của mọi người.
Sống tâm tình con thảo trước Chúa là Cha yêu thương gần gũi, để reo vui trước những thành công, cảm thông trước khi thất bại và quảng đại dâng hiến chẳng tiếc với Chúa bất cứ sự gì. Đó là khởi đầu tập đi trên đường thơ ấu. Vẫn biết rằng “dòng đời không êm ái như dòng sông”, như dòng tu, nhưng đẩy ước mơ lên những đỉnh cao lành thánh như góp phần hy sinh cầu nguyện cho thế giới hòa bình hơn, cho người người thương yêu nhau hơn, cho thị trường công bình hơn, cho chân lý tỏa sáng hơn, cho mình cho gia đình cho cộng đoàn được nên thánh hơn. Đó cũng là những bước chân âm thầm trên đường thơ ấu. Và với tình yêu phó thác sẵn sàng đón nhận tất cả như hồng ân, cho dẫu là hồng ân vinh quang hay Thánh giá, thể xác hay tâm hồn, cá nhân hay Giáo hội, đó chính là tuyệt chiêu trẻ trung trên đường thơ ấu Têrêsa.

Đường nên thánh của Têrêsa như “chiếc thang máy tình yêu” rộng mở. Ai vào, thang sẽ tự động nâng lên. Vấn đề là ta có thích bước vào hay không? Câu trả lời xin dành riêng cho từng người hôm nay. Còn bây giờ là chứng từ của cô Linsay Youce người đóng vai chính trong một cuốn phim mới về thánh Têrêsa thành Lisieux. Cô đã trở lại đạo sau khi cuốn phim được hoàn thành. Được hỏi: điều gì hấp dẫn nhất nơi Têrêsa? Câu trả lời: Đó là việc nên thánh ngay trong tầm tay của mọi người.
Mong rằng đó cũng là điều hấp dẫn chúng ta.

Giuse Vũ Duy Thống, GM Phụ tá

Mục lục

MẸ MARIA-NGƯỜI NỮ TỰ DO

 

“Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”.

Kính lạy Mẹ, “Mẹ có phước hơn mọi người nữ” Vì Mẹ là Người Nữ Tự Do, còn chúng con: cả một trần gian nô lệ.

 

Cả một trần gian nô lệ

 

Khi dùng hai từ nô lệ, tôi rất ngại và đắn đo lắm, vì sợ xúc phạm đến cả và loài người, trong đó có thể có những người thánh thiện lắm, tự do lắm… nhưng không còn cách nào hơn, vì tôi muốn nói đến sự nô lệ do hậu quả của tội nguyên tổ. Chính hậu quả nầy làm cho chúng ta luôn nghiêng chiều về thế lực của Satan, luôn kìm hảm chúng ta trong vòng nô lệ- ban đầu là nô lệ những thực tại hư ảo mang dáng vẻ rất giá trị cho cuộc sống, rồi từ ấy, dẫn chúng ta đến việc đặt vào những giá tri ấy một niềm tin, và cuôi cùng là đến tình trạng phạm tội chống lại Thiên Chúa.

 

Thử nghiêm túc đặt lại vấn đề với cõi lòng mình, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể thấy rõ ràng chúng ta đang bị mất tự do, hay đúng hơn là bị nô lệ. Nô lệ quyền lực, nô lệ lý trí, nô lệ tài năng, nô lệ tiền bạc, nô lệ sắc đẹp, nô lệ xác thịt, nô lệ tiện nghi…

 

Chúng ta không nô lệ quyền lực sao, khi chúng ta vẫn còn cố tìm cho mình một danh xưng, một địa vị, một vai trò và cố giữ cho mình một cung cách gia trưởng trong xã hội, giáo hội và gia đình? Không bị nô lệ sao, khi chúng ta là bề dưới không chấp nhận quyền bính của bề trên và nghĩ rằng bề trên không biết làm việc-một cách nào đó, nói lên lòng ghen tỵ vô độ trong ta. Chúng ta không nô lệ lý trí sao, khi vẫn tự cho rằng cái tư duy của mình luôn luôn là duy nhất đúng, và yêu cầu mọi người phải chấp nhận sửa sai theo cách nghĩ của mình? Chúng ta không nô lệ tài năng của mình sao, khi vẫn miệt mài sáng tạo để rồi nghênh ngang kênh kiệu với những thành tích và thèm thuồng những lời tung hô vô bổ. Nô lệ tiền bạc dễ nhận ra hơn cả, vì cần có tiền mà con người ta không kể gì mọi mưu mánh, mọi thủ đoạn. Và còn hơn thế nữa, đâu chỉ có người giàu mới bị đồng tiền cuốn hút, mà cả người nghèo không chấp nhận nổi cảnh nghèo cũng bị nó khống chế từng giờ từng phút. Bạn có buồn phiền, chán nản, thất vọng vì không tiền không bạc, vì thua bạn thua bè không? Bạn không bị nô lệ đồng tiền đấy sao? Về sắc đẹp, ngày nay không chỉ phái nữ, mà cả phái nam, quá lo lắng về sắc đẹp của mình, tìm mọi cách để trau chuốt, làm mới, làm tươi trẻ làn da mái tóc, để sức quyến rủ luôn không những còn mà phải còn mãnh liệt hơn..Chúng ta không bị nô lệ tính xác thịt sao, khi vẫn chủ trương sống theo cách “con” không mang tính “người” hòa nhịp với những trào lưu hiện sinh duy vật đang tràn lan khắp thế giới. Chấp nhận những phương pháp hổ trợ tình dục, hổ trợ tránh thai, hạn chế sinh sản và giết người không có sức tự vệ không phải là chúng ta đang làm nô lệ cho tà thần dục lạc trong ta sao? Và tiện nghi trong thời đại văn minh tột bậc của loài người đang cuốn chúng ta vào thị trường mua sắm để có mà phục vụ cho một cuộc sống trần thế an nhàn thoải mái, để bù đắp cho mình những ngày cùng cực và quên đi bao nhiêu con người cùng khốn quanh ta. Chúng ta không làm nô lệ tiện nghi đấy sao? Nhất là những tiện nghi không cần thiết.

 

Sự nô lệ cho Satan và các tà thần do tội nguyên tổ để lại, không loại trừ một ai và cũng không loại trừ ở chế độ nào, đất nước nào. Không hẳn ở đất nước tự do mà bạn và tôi không bị nô lệ, có khi còn bị nô lệ hơn người. Không hẳn ở một đất nước mất tự do hoặc kém tự do, mà chúng ta không được tự do, có khi lại còn tự do hơn người. Ách thống trị của Satan tài tình đến nỗi làm cho chúng ta tưởng mình thật sự tự do trong khi mình đang bị nô lệ. Sau biến cố 1975, người công giáo Việt Nam sống trong một chế độ gần như mất tự do tôn giáo, nhưng ít bị nô lệ tội lỗi hơn là lúc nền kinh tế thị trường mở toang cửa để hội nhập với các nền văn minh tự do. Đâu đâu người ta cũng biểu tình, xuống đường đòi hỏi yêu sách cho có tự do, nhưng chưa thấy cuộc biểu tình chống nô lệ tội lỗi. Một số giáo dân Việt Nam lớn tuổi đang lấy làm tiếc cho một thế hệ thanh thiếu niên đang lao mình vào cuộc sống “mất tự do” mà không hề hay biết-cứ tưởng là ta đang trên đà phát triển một cách tự do. Vâng, thứ tự do mà con người yêu thích thời nay, cũng là thứ tự do mà các tà thần chống lại Thiên Chúa rất hài lòng và hổ trợ bằng nhiều cách ranh khôn. Thứ tự do đưa đẩy con người đến chổ xa dần Thiên Chúa.Thứ tự do bằng lòng làm nô lệ cho mọi thực tại hữu hạn, tự do đến mức tôn vinh những thực tại ấy như là thần tượng cần thiết không thể thiếu trong cuộc đời. Không đổ thừa đổ lỗi cho ai vì “không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ”

 

Mẹ Maria-Người Nữ Tự Do

 

Trong thế giới loài người từ ngàn xưa đến ngàn sau, không ai có được diễm phúc như Mẹ Maria, vì Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, vì Mẹ được vinh dự cưu mang Con Thiên Chúa. Và từ hai  hồng phúc nầy, Thánh Irene đã cảm thấy trước đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ khi Ngài ca tụng Mẹ Maria là “Evà mới” trong công cuộc tạo dựng  mới của Thiên Chúa Cha, qua Ngôi Con của Người. Qua những cảm nghiệm trong đời sống đức tin của Giáo Hội về vai trò đặc biệt duy nhất của Mẹ Maria, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã long trọng công bố Tín Điều Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội ngày 8-12-1854. Với ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta có thể gọi Mẹ Maria là Người Nữ Tự Do duy nhất trên trần gian nầy, vì không có thế lực tà thần nào có thể khống chế Mẹ được.

 

Mẹ Maria, người nữ tự do, luôn luôn thuộc về Thiên Chúa Cha, và làm theo chương trình của Thiên Chúa Cha. Sức mạnh quyền lực trong phận hèn liễu yếu đào tơ ấy là sức mạnh quyền lực của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ với hai từ khe khẻ “xin vâng” mà rung chuyển cả địa cầu, mà xôn xao muôn dân nước, mà khiếp kinh bao thế lực quỷ thần. Và sau lời đáp “xin vâng” là “xin vâng một lần cho một đời”. Cả lý trí, tài năng, con người và tất cả cuộc đời Mẹ thuộc về Thiên Chúa. Mẹ Maria hoàn toàn tự do cho một lần xin vâng và hoàn toàn tự do trong suốt cuộc đời, và như thế, không có một giá trị trần gian nào làm lay chuyển lòng Mẹ. Mẹ được tự do đích thực: tự do tương quan với Thiên Chúa và tự do thực hiện ý định của Ngài cho công cuộc cứu rỗi nhân loại. Như vậy việc chấp nhận đồng hành với Chúa Giêsu Cứu Thế là chấp nhận theo sự tự do thuộc về Thiên Chúa, cho chương trình Thiên Chúa, dù dưới con mắt trần gian, Mẹ cùng Con “như thân phận tôi đòi, nô lệ”, nhưng là “tôi đòi cho Thiên Chúa”, không phải cho Satan và tội lỗi. Và chính bằng lòng làm nô lệ cho Thiên Chúa để một lần tạ tội thay cho cả và con người chúng ta, mà chúng ta dược cứu chuộc.

 

Mẹ Maria, người nữ tự do, vì Mẹ mặc lấy uy quyền của Thiên Chúa. Satan, một mặt luôn khiếp sợ Mẹ, mặt khác, luôn sợ các linh hồn yêu mến tôn sùng Mẹ, nên chúng luôn tìm mọi cách lôi chúng ta ra xa Mẹ, càng xa càng tốt. Nhưng đáng vui mừng thay, mỗi năm có cả hai tháng năm và mười để chúng ta suy tôn Mẹ, mỗi tuần có ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, và có thể nói, kinh nguyện mỗi ngày vẫn luôn hướng lòng con cái Chúa lên với Mẹ để nhắc nhớ cho chúng ta rằng: chúng ta là con cháu E và, thân phận nô lệ bao điều hư ảo, ngước trông lên người nữ tự do, cầu Mẹ cứu giúp chúng ta được tự do, được thoát vòng tục lụy.

 

Kinh Mân Côi-Giải Phóng Nô Lệ

 

Kinh Mân côi là lời chúc tụng Mẹ xứng đáng nhất “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ”; và cũng là lời khẩn xin tha thiết nhất “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. A men”.

 

Khi đọc kinh Kính Mừng thật sốt sắng, ta có thể thấy được lòng thành khẩn trong ta muốn tìm về với Thiên Chúa, khiêm tốn nhận mình kẻ có tội, và muốn thoát vòng nô lệ của tội lỗi, ngay lúc nầy và nhất là lúc giã từ cuộc đời.

 

Liên kết kinh kính mừng  với chuỗi Mân Côi cho ta suy gẩm cả cuộc đời Chúa cứu thế, và cùng với Mẹ Maria, chúng ta kết hiệp đồng hành với Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời. Chỉ nghe lời “xin vâng” của Mẹ thôi, ma quỉ đã rụng rời khiếp hãi. Huống chi là có Mẹ Maria đang cùng Đức Giêsu , Con của Cha trên trời, đồng hành với ta trong cuộc đời qua chuỗi Mân côi, thì ta tin chắc rằng không có thế lực nào lôi kéo nổi chúng ta về phía nô lệ tội lỗi. Như vậy chuỗi Mân Côi đem ta về với Thiên Chúa, giữ cho ta luôn được tự do, giúp ta chiến thắng trong cuộc chiến với những lời mời gọi của những giá trị hư ảo. Chuỗi Mân Côi giải phóng chúng ta khỏi những nô lệ tà thần, tội lỗi.

 

Lúc trước, các ông ngại lần chuỗi, nay thì thấy đã nhiều hơn rồi.Các bà thường lần chuỗi hơn và điều đáng tiếc là thanh thiếu niên thời nay hầu như ít lần chuỗi. Trách nhiệm thuộc về gương sáng và giáo dục đức tin nơi các gia đình. Có người bảo cần phải xem lại lần chuỗi là lần chuỗi,  hay suy gẩm mầu nhiệm cứu chuộc. Vâng thật đúng, thật chính xác vì lần chuỗi là suy gẩm mầu nhiệm cứu chuộc. Nhưng trong thực tế, tôi vẫn nghĩ đièu quan trọng là hãy bắt đầu lần chuỗi, và rất đơn giản là ai lần chuỗi với lòng thành tâm nhờ Đức Mẹ can thiệp vào cuộc đời là đã được ơn ích rồi. Không thiếu những người không biết chữ đang lần chuỗi. Không thiếu những người chưa học giáo lý đang lần chuỗi ở các trung tâm hành hương Đức Mẹ. Kể cả những người chưa rửa tội, họ thành tâm đến với Mẹ. Thần học về Mẹ Maria không phải là một mớ lý thuyết , nhưng chính là việc khám phá dần dần những điều huyền nhiệm nơi Mẹ qua việc lần chuỗi. Mẹ ban ơn cho người lần chuỗi Mân Côi cảm nghiệm được tình thương của Chúa, không phải một ngày một bữa mà là cả một đời. Hãy cứ mạnh dạn đến với Mẹ, hãy bắt đầu lần chuỗi; người người lần chuỗi, nhà nhà lần chuỗi, một chục, năm chục….Hãy bắt đầu lần chuỗi Mân côi như bắt đầu công cuộc tìm lại sự tự do, bắt đầu một lối thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

 

Ông Bảy Thận ở giáo xứ Hiệp Đức tôi, bị xơ gan cổ trướng, nằm một chỗ đau đớn la ó om sòm. Một hôm nọ, có anh rượu đã ngà ngà đi qua nghe la ó, dừng lại hét vào nhà:

 

-“Ông la đấy hả! quỉ ám đấy hả! tui kêu ông Cha xuống trói đầu ông bây giờ”

-“Cái thằng mất dạy, mầy tưởng tao sợ ông Cha hả, tao quen ông Cha từ hồi còn ở Qui Nhơn nghe mầy, tao còn thuộc kinh Kính Mừng nữa nghe mầy, đừng có hù tao, thằng mất dạy”

 

Một hội viên Legio nghe vậy, lên nói chuyện với Cha xứ. Ngài đã xuống thăm. Và đúng như thế, ông Bảy thuộc kinh Kính Mừng hồi còn thiếu nhi theo đi kiệu ở Qui Nhơn. Sau mấy lần Cha thăm viếng, ông đã được ơn trở lại, được rửa tội. Các hội đoàn liên tục đọc kinh cầu nguyện cho ông. Một tháng sau, Ông Giacôbê Bảy Thận ra đi bình an lắm. Ngày Giỗ một năm của ông, cũng là ngày cả nhà ông được ơn trở lại.

 

Lạy Mẹ Maria, chúng con tin tưởng Mẹ, là Mẹ Đức Chúa Trời, Mẹ của chúng con, Mẹ của những con người muốn tìm tự do đích thực. Đến với Mẹ, và cùng Mẹ, chúng con bước theo Chúa Giêsu con Mẹ, vượt qua cuộc lữ hành chiến đấu và chiến thắng ở trần gian, để cùng dự phần phúc vinh với Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng chúng con.

 

Pm. Cao Huy Hoàng

Mục lục

 

VIÊN NGỌC THỜI GIAN

Trời có lúc nắng lúc mưa. Mưa cho cây cối mọc nhanh, xanh lá tốt cành. Nắng cho hạt nẩy mầm, cho cây phát triển. Thời gian có đêm có ngày. Ngày để con người làm việc, đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Thời gian được con người sử dụng : khi thì phục vụ cộng đoàn xã hội, lúc lại phục vụ cộng đoàn tôn giáo; khi thì phục vụ gia đình, lúc lại phục vụ bản thân; khi thì ồn áo náo nhiệt, lúc thì bình yên, trầm lặng; khi thì vui như tết như hội, lúc lại buồn, lại đau khổ; khi thì làm việc, lúc thì nghỉ ngơi; lúc thì quan tâm đến tha nhân, khi khác lại lo cho cá nhân, cho cuộc sống riêng tư của mình.

Vâng, đó là những sinh hoạt rất đời thường trong cuộc sống, những sinh hoạt này được diễn ra và trải dài trong dòng thời gian. Nay cũng vậy mà xưa cũng thế.

Vào nơi thanh vắng

 “Các Tông đồ kể lại cho Đức Giêsu biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông : "Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi." Và thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (Mc 6, 30-32).

Hãy dành thời gian để gặp gỡ Thiên Chúa

Maisen đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa.

Êlia đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Giavê Tình yêu.

Dân Dothái đi trong sa mạc 40 năm trước khi đến được đất hứa.

Gioan Tẩy giả đi vào nơi hoang địa miền Giuđê rao giảng, kêu gọi sự sám hối.

Chúa Giêsu cũng vào nơi hoang vắng ăn chay cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ vụ công khai.

Chúa Giêsu vẫn thường lui vào nơi thanh vắng khi sáng sớm hay lúc chiều về, sau ngày làm việc để cầu nguyện, để gặp gỡ với Chúa Cha.

Vào nơi thanh vắng là cần thiết, lúc này con người ra khỏi công việc, ra khỏi những hoạt động bên ngoài để trở về với lòng mình. Một tâm hồn cần được nghỉ ngơi và bồi dưỡng sức lực, sinh lực và sinh khí từ Thiên Chúa, nhờ kết hợp với Ngài bằng đời sống cầu nguyện, bàn hỏi, tâm sự như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, hồn con lặng lẽ an vui.

Điều đáng sợ nhất là làm việc quá mức, hoạt động quay cuồng đến quên, đánh mất chính mình. Tự hỏi xem, mình là gì so với vũ trụ bao la này. Rồi điều đáng sợ nữa là không làm việc, cũng chẳng hoạt động, thụ động như một cỗ máy gỉ sét, như một đống bột, như người mất hồn, đến nỗi ruồi muỗi đậu mũi cũng không thèm đuổi. Cả hai thái cực đều thái quá.

Quân bình cuộc sống

Quân bình giữa lao động và nghỉ ngơi, giữa hoạt động trí thức và lao động chân tay… Nghĩa là ta sử dụng những nén bạc Chúa ban : sức khoẻ, vật chất và thời gian một cách hài hoà, hợp lý.

Nhờ vậy đời sống con người tạo nên sự nhịp nhàng, thoải mái giữa đời sống thể xác, và đời sống tinh thần cũng như đời sống thiêng liêng.

Nhờ vậy, ta luôn được an bình giữa cuộc sống đầy phong ba bão tố ập đến đời ta bất cứ nơi đâu, tuổi nào và thời gian bất kỳ.

Nhờ vậy, ta luôn can đảm tiến bước vào thế gian, sống giữa cuộc đời, để thánh hoá thế gian với niềm tin vững vàng, lòng mến sắt son và hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa quan phòng.

Quý trọng thời gian

Nén bạc thời gian, có lẽ đáng cho ta quan tâm hơn cả. Vì thời gian chữa lành tất cả. Xoa dịu tất cả. Biến đổi tất cả. Thay đổi tất cả. Trả lời tất cả. Hoàn tất tất cả. Vâng, với thời gian, con người mới nhận ra tình yêu Thiên Chúa và những lời hứa trung thành, ban ơn cứu độ của Ngài.

Hãy quý trọng thời gian vì đó là món quà quý giá của Thiên Chúa dành cho ta.

Hãy biết sắp xếp, phân bổ thời gian hợp lý để cuộc sống khỏi đi đến chỗ căng thẳng, quá tải vì công việc, trách nhiệm và bổn phận.

Hãy dành thời gian để vui cười, vì đó là tiếng nhạc du dương, thánh thót của một tâm hồn nhẹ lâng, yêu đời yêu người.

Hãy dành thời gian để suy nghĩ, vì đó là nguồn sức mạnh khám phá chân lý, thế giới, tạo vật.

Hãy dành thời gian để vui đùa, giải trí, vì đây là bí quyết để sống lâu, trẻ mãi không già.

Hãy dành thời gian để đọc sách, đó là nền tảng của sự khôn ngoan.

Hãy dành thời gian để yêu, vì đây là món quà quý giá và vĩ đại nhất Thiên Chúa dành cho con người.

Hãy dành thời gian để kết bạn, vì đó là con đường đưa đến tình yêu và hạnh phúc.

Hãy dành thời gian để mơ ước, vì đó là sức mạnh và cảm hứng để vươn tới tương lai.

Hãy dành thời gian để làm việc, vì đó là bảo đảm cho sự no ấm, sung túc, thành công.

Hãy dành thời gian để cầu nguyện, vì đó là sức mạnh của con người nhờ có trợ giúp của Thiên Chúa để thắng vượt mọi gian nan thử thách, mọi đắng cay của cuộc đời và những nặng nề trách nhiệm, bổn phận.

Hãy dành thời gian cho Thiên Chúa, vì đó là cách ta phải sống, sống tốt, sống hay, sống giỏi, sống chất lượng cao, sống đúng đường lối Chúa đã chuẩn bị.

Và, hãy dành thời gian để chuẩn bị, vì thời gian là của Thiên Chúa. Ngài ấn định cho từng tạo vật. Quyền năng này chỉ Thiên Chúa, còn con người thì không. Điều này cho thấy giới hạn của con người về thân phận, về thời gian hiện diện của mình. Vì ta không làm chủ thời gian. Nên ta chuẩn bị là phải lẽ. Nên ta sẵn sàng là điều hợp lý.

Thanh Thanh

Mục lục

Cây cầu thông thương

Hồi đầu mùa Hè năm nay 2007, một cây cầu bên Hoa Kỳ chảy ngang qua dòng sông Mississipi bị gẫy vào lúc có nhiều xe cộ chạy ngang qua.

Cây cầu sụp gẫy đổ làm ngưng trệ giao thông gây thiệt hai về nhân mạng cùng tài sản!

Hôm 26.09.2007 tin từ Việt Nam: Nhịp cầu Cần Thơ đang thi công bắc ngang qua sông Hậu giang, bị sụp gẫy.

Sự cố gây thiệt hại bị thương và làm chết nhiều người. Nhịp cầu gẫy đổ làm công trình xây cất cầu bị gían đoạn.

Những tin trên gây sửng sốt, làm đau lòng cùng gây suy nghĩ cho mọi người.

Cây cầu mang ý nghĩa gì cho đời sống cùng cho đời sống đức tin?

1.Nhịp cầu đời sống xã hội

Cây cầu nào cũng nối liền hai bên bờ vực bị ngăn cách, như cây cầu bắc ngang qua dòng sông tỉnh LongXuyên nối liền hai bên bờ thành phố lại với nhau; cầu Mỹ Thuận bắc ngang qua sông Tiền Giang nối liền giao thông các tỉnh miền Đông với các tỉnh miền Tây Việtnam…

Khi một cây cầu được xây bắc ngang qua dòng sông, qua thung lũng hay eo biển, khoảng ngăn cách hai bên bờ được thu nhỏ lại.

Và nó xóa bỏ biên giới, rào cản hai bên ngăn cách chia rẽ. Nó tạo điều kiện giao thông đi lại được thuận tiện, an toàn cùng nhanh chóng hơn.

Khi giao thông được khai mở ra qua cây cầu, nền văn hóa cùng nền kinh tế phát triển được chuyên chở từ bờ bên này sang tới bờ bên kia và ngược lại.

Nhịp cầu cũng là hình ảnh cho sự thông thương giao hảo làm bớt căng thẳng cùng những khác biệt chia rẽ giữa con người với nhau.

Nhịp cầu nối liền không chỉ bờ đất đá hai bên, mà còn cả con người lại với nhau nữa. Nó không cất đi hay bài trừ lấp dòng sông nước đang chảy, cùng xóa bỏ sự khác biệt giữa con người với con người. Nhưng nhịp cầu tôn trọng thiên nhiên, cùng con người.

Trong nghệ thuật, cây cầu là hình ảnh như một cây cung giữ cho hai bên mối dây căng thẳng ra, không bị đứt gãy, hay nằm chùng dãn vô dụng, hay bị loại bỏ đi.

Trong đời sống con người, cây cầu là hình ảnh của thăng bằng giữa hai bên bờ cực. Nếu một bên bờ cột trụ cầu bị yếu đi hay lún xuống, cây cầu đời sống sẽ sụp đổ gẫy.

Cây cầu làm bằng xi măng cốt sắt, bằng gạch gỗ, hay cây cầu đời sống con người cũng thế. Nó sống đứng vững được nhờ có thăng bằng bám trên những cột trụ nâng đỡ, không để cho những căng thẳng bị lệch nghiêng về một bên phía nào gây sụp đổ gẫy.

2. Nhịp cầu đời sống tinh thần

Khi một cây cầu giữ được thăng bằng đứng vững chắc, nó tạo cơ hội đường đi biến chiến tranh thành hòa bình, biến sự buồn sầu đau khổ thành niềm hy vọng, biến đổi đời sống từ nghèo đói thiếu thốn thành no đủ sung túc, nối liền hai thế hệ gìa trẻ, người bệnh tật và người mạnh khỏe, người đau khổ và người được may mắn lại với nhau.

Con người xây nhịp cầu, khi họ tỏ tình liên đới với nhau; khi họ trao đổi thông tin, nói chuyện với nhau; khi trao tặng nhau lời an ủi tha thứ làm hòa, tặng nhau nụ cười chiếu tỏa tình thân ái cùng quan tâm đến nhau.

Và qua nhịp cầu đó phát sinh tình yêu mến, niềm tin tưởng nơi nhau, niềm hy vọng và làm tan biến hận thù ghen ghét cùng sợ hãi hoài nghi.

3. Nhịp cầu đời sống đức tin

Tình yêu là cây cầu nối liền con người lại với nhau. Tình yêu là nhịp cầu nối liền con người với Thiên Chúa. Thiên Chúa bắc nhịp cầu đến với con người qua Chúa Giêsu Kitô.

Nhịp cầu Giêsu nối liền hai bờ vực thẳm giữa Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và con người loài thụ tạo lại với nhau.

Chúa Giêsu, là Thiên Chúa, từ trời cao đã xuống trần gian làm người, hy sinh đời sống chết và sống lại, đã bắc nhịp cầu sự sống nối mở đường thông thương trời và đất lại với nhau.

Nhịp cầu sự sống Giêsu xóa bỏ ngăn cách do tội lỗi gây ra. Nhịp cầu đó mang ánh sáng ơn cứu độ tình yêu Thiên Chúa cho con người, và nhịp cầu này là lối đi dẫn con người đến với Thiên Chúa.

Khi đi rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã trao quyền cho các Thánh Tông đồ và Giáo Hội bắc nhịp cầu sự sống tiếp theo: „ Anh em hãy đi khắp thế gian rao giảng Nước Thiên Chúa cho muôn dân, làm phép Rửa cho họ nhân Cha và Con và Thánh Thần.“ ( Mt 28,19).

Nhiệm vụ bắc nhịp cầu đức tin tinh thần đó cho con người của Giáo Hội Chúa Giêsu ở trần gian rất khó khăn và tế nhị.

Người Rôma ngày xưa đã dùng danh hiệu „ Pontifex : Pons= Cây cầu; Facere, facit = làm - Người bắc nhịp cầu“ chỉ các đức Giáo Hoàng cùng các Giám mục. Ngày nay danh hiệu Pontifex vẫn còn là danh xưng dành cho Đức Giáo Hoàng Roma.

Từ ngày lãnh nhận làn nước cùng ánh sáng cây nến Rửa tội, nhịp cầu sự sống đức tin vào Thiên Chúa nối liền người tín hữu với Chúa Giêsu Kitô và với Giáo Hội của Người trên trần gian.

Nhịp cầu đó không tự động biến đổi ai thành thánh. Nhưng nhịp cầu đó là con đường dẫn lối nhắc bảo sống nên người tốt lành, nên người làm chứng cho làn nước Rửa tội cùng ánh sáng cây nến đức tin vào Chúa.

Khi một cây cầu đã được xây dựng xong, nó cần phải được bảo trì gìn giữ cùng tân trang sửa chữa. Có thế, mới giữ được thăng bằng đứng vững không bị nghiêng đổ sụp gẫy.

Cây cầu có chức năng nối liền, thu nhỏ ngăn cách, xóa bỏ rào cản biên giới. Nhưng cây cầu cũng phải chịu đựng những gánh nặng đè trên nó.

Phải chăng sống tế nhị, kính trọng nhân phẩm người khác, cùng tôn trọng sự khác biệt của nhau trong đời sống làm người, trong đời sống Giáo Hội là cung cách sống bắc nhịp cầu, cùng gìn giữ nhịp cầu đức tin, nhịp cầu tình người được thăng bằng đứng vững?

Tháng Mân Côi và truyền giáo trong Giáo Hội, 10.2007

Lm. Nguyễn Ngọc Long

Mục lục

CHUỖI MÂN CÔI VÀ ĐỜI LINH MỤC

Kinh Mân Côi là lời kinh hiệu nghiệm để xin ơn, lời kinh do chính Đức Maria soi sáng thiết lập trong Giáo Hội. Đó là lời kinh được nhiều thánh nhân, nhiều nhà giảng thuyết, nhiều vị thừa sai, nhiều dòng tu tận tình truyền bá. Đó cũng là lời kinh được Công đồng Vatican II giới thiệu, nhiều vị giáo hoàng thời danh tán dương, cổ võ…

Đối với người linh mục, cùng với nhiều việc đạo đức, nhiều phương thức khác nhau để thánh hóa và tự thánh hóa mình, kinh Mân Côi góp phần nuôi sống chính đời sống linh mục. Vì thế, các linh mục đừng chỉ dừng lại ở phương diện rao giảng về kinh Mân Côi, mời gọi mọi người hãy tìm đến kho tàng ơn Chúa nhờ suy niệm kinh Mân Côi, như lời “đầu môi chót lưỡi”, mà hãy là người chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Mân Côi trước hết và trên hết anh chị em mình.

I. CHUỖI MÂN CÔI TRONG TƯƠNG QUAN VỚI TIN MỪNG.

Với những mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng mà mỗi khi ta chiêm ngắm, là chiêm ngắm chính cuộc đời của Chúa Kitô. Bởi thế, kinh Mân Côi cũng là quyển Tin Mừng rút gọn. Quyển Tin Mừng ấy tuy rất đơn giản, nhưng cũng rất phong phú, vì nơi đó, khi chiêm ngắm, ta bước theo Chúa Kitô từ khi Người nhập thể làm người, ra đi loan báo Tin Mừng trên mọi nẻo đường Palestina, đến hành trình đớn đau và khổ nhục tiến lên đỉnh đồi Calvariô, chịu đóng đinh, chịu chết và phục sinh vinh hiển mở ra con đường sự sống mới cho nhân loại.

Mầu nhiệm mùa vui diễn tả về một Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa. Đi xa hơn, mùa Vui còn khẳng định cho chúng ta về một “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thiên Chúa đã làm người: một chân lý quá tuyệt diệu, quá lớn lao vượt ra ngoài sức tưởng tượng của loài người. Bởi không thể hiểu nổi, khi Chúa Kitô xuất hiện, đã làm loài người ngỡ ngàng, không thể tin Đấng Mêssia mà họ hằng mong chờ, nay lại cư ngụ giữa họ! Bởi thế, nhiều người đã không chấp nhận và không tin vào Chúa Kitô.

Mầu nhiệm sự Sáng diễng tả cuộc đời công khái của Chúa Kitô cùng những bước chân ra đi không mệt mỏi trên con đường loan báo Tin Mừng.

Sau nhiều năm sống ẩn dật, thời gian cần thiết chuẩn bị cho sứ vụ mà Thiên Chúa trao phó, Người loan báo ơn cứu độ đã đến bằng Lời rao giảng, bằng cuộc sống chứng tá, bằng những phép lạ Người đã thực hiện để dạy loài người về một Thiên Chúa yêu thương đến độ hạ mình phục vụ họ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống cho loài người” (Mt 20, 28).

Mầu nhiệm mùa Thương diễn tả những giờ phút đau thương và tủi nhục của Chúa Kitô. Đó cũng là những giờ phút đấu tranh tư tưởng kịch liệt, bởi sự giằng co nội tâm khi đối diện với cuộc khổ nạn mà Người sắp đón nhận: “Lạy Cha, xin cho Con đừng uống chén này, nhưng xin đừng theo ý Con mà theo ý Cha” (Mt 26, 39).

Chúa Kitô đã chấp nhận và đi đến tận cùng con đường thập giá. Bởi đó là con đường duy nhất nối lại mối tương giao giữa nhân loại với Thiên Chúa, giữa Đấng Tạo dựng và loài thụ tạo. Ngày xưa, Ađam đã phá vỡ mối tương giao ấy bởi sự không vâng phục, thì nay, qua cái chết của Chúa Kitô – Ađam mới, đã hàn gắn lại, để con người được hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, sống trong tương giao tình yêu của Người.

Mầu nhiệm mùa Mừng diễn tả niềm vui khôn cùng của nhân loại một khi vững tin vào Chúa Kitô phục sinh. Cuộc phục sinh khải hoàn ấy mở ra một viễn tượng mới: cái chết sau cuộc sống trần thế này, không là một dấu chấm hết, nhưng là bệ phóng đưa ta vào vĩnh cửu, sống trong sự sống tràn đầy ánh sáng vinh quang mà Chúa Phục Sinh trao ban. Chẳng những không hữu hạn, sự sống ấy còn có chính Thiên Chúa, Nguồng Hạnh Phúc trở nên niềm hạnh phúc tuyệt đối của loài người.

Xuyên suốt những mầu nhiệm Mân Côi đầy ánh sáng Tin Mừng ấy, ta thấy ẩn chứa dáng dấp một người phụ nữ cùng song hành với Chúa Kitô trong hành trình cứu thế của Người. Người phụ nữ ấy chính là Đức Maria, Người Nữ Tỳ và Người Nghèo của Thiên Chúa. Dù hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ thốt lên trước mặt thiên thần, đã chấm dứt trong ngày truyền tin, nhưng cuộc sống Xin Vâng thì không dừng lại, lại trải dài suốt cuộc đời làm Mẹ Đấng Cứu Thế của Mẹ.

Đi bên cạnh Con mình để sống một đời Xin Vâng, Mẹ trở nên một người mẹ thầm lặng luôn suy đi nghĩ lại mọi biến cố xảy đến cho mình (Lc 2, 51). Và nếu những giai đoạn cứu thế của Chúa Kitô ngày càng rõ nét theo tuổi đời của Người, thì tiếng Xin Vâng của Mẹ càng sáng hơn, càng quyết liệt dần lên xa hơn.

Chẳng hạn, Mẹ đã thinh lặng chấp nhận nghe Con thông báo phải “làm việc của Cha Con” sau khi vất vả đến ba ngày tìm Con thất lạc (Lc 2, 46-50). Mẹ lại Xin Vâng khi dõi bước theo Con trên đường rao giảng. Đến khi kết thúc những tháng năm rao giảng của Con, Mẹ lại tiếp tục dõi theo từng chặng đường thánh giá nghiệt ngã, rồi đau đớn chứng kiến những tũi nhục, roi đòn, lời sỉ vả… mà loài người đan tâm trút lên Người Con của mình. Mẹ đã Xin Vâng trong chết lặng nát tan cõi lòng khi chứng kiến đến giây phúc sau cùng của Con trên thánh giá.

Nhưng nếu đã gắn bó với Con bao nhiêu trong đau đớn, thì tiếng Xin Vâng của Mẹ càng được bù đắp cân xứng bấy nhiêu trong niềm vui chan chứa của ngày Con khải hoàn phục sinh.

Cuộc đời Xin Vâng của Đức Maria nỡ hoa rực rỡ trong niềm vui ơn cứu độ của Chúa Kitô. Đi bên cạnh Con mình, Đức Maria đã dâng hiến trọn vẹn để thực thi đến cùng lời thưa Xin Vâng.

2. ĐỜI LINH MỤC VỚI CHUỖI MÂN CÔI.

Nhìn lại hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô qua bốn mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng, chúng ta cảm nhận và hình dung đó chính là cuộc đời của mỗi linh mục chúng ta. Các mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng như cũng đan xen qua những biến cố thăng trầm của cuộc đời người linh mục. Hãy đem những thăng trầm đó mà tháp nhập vào cuộc đời của Chúa Kitô, để cuộc đời người linh mục được lồng trong chính cuuộc đời của Chúa Kitô.

    1. Mùa Vui của người linh mục.

Nhiều lắm những lần chúng ta cảm nhận niềm vui trong những tháng năm sống đời tu của mình. Ngày nhận giấy đi Chủng viện chẳng hạn. Nhất là thời gian khoảng ba chục năm trở lại đây, khi mà người muốn sống ơn gọi tu trì cứ mãi bị kỳ thị, bị nghi ngờ, thậm chí bị chống đối bằng những hình thức nặng nhẹ khác nhau…, vậy mà cuối cùng vẫn giữ được ơn gọi của mình, càng làm cho những ai có tâm hồn tha thiết với ơn gọi vui mừng lớn lao. Vui như trần thế chẳng còn cái vui nào lớn hơn. Niềm vui như vỡ òa trong nước mắt hạnh phúc chảy tràn.

Đàng khác, thực hiện được ơn gọi của riêng mình, ta cũng vui vì đó là một bước ngoặc lớn trong cuộc đời. Bởi sau bao nhiêu vất vả lo toan, sau bao nhiêu khắc khoải đợi chờ, ta bước vào môi trường mới, bước vào cuộc sống mới với tất cả những trang bị cần thiết cho lý tưởng đời mình, cho Giáo Hội của Chúa và cho cả đồng loại xung quanh nữa. Và biết nhiêu những nỗi vui mừng khác trong đời linh mục của ta. Đó chính là những mùa vui của người linh mục. Những mùa vui ấy cần thiết, để giờ đây, qua nó, ta tháp nhập vào mầu nhiệm Mân Côi trong chính cuộc đời trần thế của Chúa Kitô.

    2. Mùa sáng trong cuộc đời người linh mục.

Những năm tháng dưới mái nhà Chủng viện lặng lẽ trôi nhanh. Rời mái trường Chủng viện, ta trở thành thầy sáu, rồi linh mục. Với vai trò mới, chúng ta đặc biệt được Giáo Hội trao cho mình nhiệm vụ quản lý và phân phát kho tàng ơn Chúa cho anh chị em. Nhờ bàn tay thi hành thánh chức của mình, người linh mục đưa dẫn anh chị em về với Thiên Chúa, về với ơn cứu độ của Người.

Như vậy, trở thành linh mục, ta trở nên người bước tiếp con đường Thầy Giêsu đã đi, không phải những nẻo đường Palestina, nhưng là những nẻo đời giữa lòng cuộc sống. Đặc biệt, đối với các linh mục tại Việt Nam, những nẻo đời đó chính là quê hương Việt Nam của mình.

Quê hương Việt Nam còn cần nhiều linh mục nhiệt thành để loan báo Lời Chúa, cần nhiều bước chân dám dấn thân ra đi, mang Chúa đến cho mọi người. Dọc dài của nẻo đời quê hương ấy, biết bao nhiêu người cần sự nâng đỡ, quan tâm của ta, nhất là những anh chị em bất hạnh, túng nghèo, bệnh tật, bị đẩy ra bên ngoài cuộc sống xã hội, bị khinh miệt, bị chà đạp, bị bóc lột… Chính họ là những nẻo đời của quê hương. Chính họ là hiện thân của Chúa Giêsu nghèo mà người linh mục được mời gọi chia sớt cuộc sống với họ. Chỉ nơi họ, cùng với những bổn phận mục vụ và đạo đức của mình, người linh mục mới có thể làm sáng danh Chúa.

Và như thế, sống mầu nhiệm sự Sáng trong chức linh mục, có nghĩa là khi linh mục để cho danh Chúa được cao rao. Nếu đi ngược lại tất cả những điều đó, hình bóng linh mục giữa cộng đoàn nhân loại chỉ là một phản chứng, một bóng đen, tệ hơn: đó chỉ là một cách giết chết ơn gọi linh mục của chính bản thân người linh mục. Bởi vậy anh em linh mục đừng là sự tối, nhưng hãy là sự Sáng.

    3. Mùa Thương thăng trầm của đời linh mục.

Không thiếu những lần bị hiểu lầm, bị chống đối từ nhiều phía, nhiều cách thức của nhiều người dành cho người linh mục. Một mình đối mặt tất cả những hoàn cảnh ấy, dễ làm người linh mục mệt mỏi, có khi thất vọng, muốn buông xuôi tất cả, mặc cho dòng đời đưa đẩy, muốn ra sao thì ra…

Nhìn lên Chúa Kitô trên thánh giá là cách tốt nhất để người linh mục khiêm nhường nhận ra căn tín linh mục của mình: Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm, cũng chính là Chúa Kitô của thánh giá. Nhìn lên thánh giá, người linh mục sẽ hiểu rằng: “Tôi tớ không hơn chủ, trò không hơn Thầy” (Mt 10, 24; Lc 6, 40). Con đường mà Thầy Giêsu đã đi là con đường thập giá. Bởi chỉ có con đường ấy mới mang lại hoa trái của ơn giải thoát và cứu độ. Chính Chúa Kitô là bài học kinh nghiệm cho từng anh em linh mục, giúp sống đời hiến dâng trong chức linh mục của chính mình.

Ngoài Chúa Kitô, trong khi suy niệm mầu nhiệm Mân Côi, ta lại bắt gặp một khuôn mặt khả ái khác, cũng tràn đầy đắng cay, nhưng lại sáng ngời trong niềm phó thác. Khuôn mặt đó chính là Đức Maria, người Mẹ và Bà Chúa của chúng ta trong đức tin vĩ đại. Bởi vậy, khi phải chịu những bất trắc, những nỗi đau canh cánh bên lòng, người linh mục đừng sờn lòng nản chí, nhưng hãy tin tưởng và phó thác như chính Đức Maria đã tin tưởng và phó thác qua hai tiếng Xin Vâng trọn cuộc đời của mình.

    4. Mùa Mừng trong cuộc sống linh mục.

Ngày chúng ta chịu chức linh mục, nhiều người cho rằng, cuộc đời linh mục là một màu hồng xuyên suốt. Thực tình không sai. Bởi tiếp theo sau lễ phong chức là những ngày tạ ơn khắp nơi (có người còn gọi đó là lễ Vinh quy), những lời chúc mừng, những bữa tiệc linh đình… Thế rồi mừng vui nối tiếp mừng vui: nào là ngày mừng bổn mạng, ngày kỷ niệm chịu chức, ngày ngân khánh, kim khánh… Kèm theo đó là biết bao nhiêu lời chúc tụng, biết bao nhiêu món quà được biếu tặng… Đã có lúc chúng ta tự kiêu, tự mãn vì những hình thức bên ngoài ấy. Ngay cả sau khi làm được công trình vật chất nào đó, cũng khiến ta tự vui mừng, nếu không muốn nói là kiêu ngạo với cái mà mọi người gọi là “thành công” ấy. Ở nhà xứ, chúng ta tự coi mình là trung tâm của vũ trụ, tự mình quyết định tất cả. Và dù không nói ra, nhưng cũng ngầm đồng tình với vài ý kiến cho rằng “ý cha là ý Chúa”…

Người giáo dân có suy nghĩ gì khi họ hiểu được, ẩn giấu đàng sau cái phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, lại ngấm ngầm hàm chứa niềm vui tự phục vụ quyền hạn, danh dự, sự nổi nang của chính linh mục? Không biết họ nên buồn hay nên vui, vì cha “quá tài”, “quá giỏi” “đáng lừa” mọi người hết sức khéo léo bằng mọi thứ che đậy, xem ra sự che đậy nào cũng hợp lý, cũng đẹp? Càng mỉa mai hơn, đau xót hơn, khi tất cả những điều đó được che đậy thật hoàn hảo dưới lớp áo được gọi là “linh mục của Chúa Kitô”.

Chúng ta, những linh mục chỉ có thể trở nên linh mục đích thật của Chúa Kitô, khi biết sống đúng ý nghĩa của mầu nhiệm mùa Mừng là hiểu thấu đáo và cố gắng hết sức để sống chính lời Chúa Kitô: “Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống cho loài người” (Mt 20, 28).

Anh em linh mục, chúng ta có bị đánh động, có thực sự thao thức, hay trăn trở về tất cả những điều mà mình vừa suy niệm? Chẳng thể nhớ nổi, bao nhiêu lần trong cuộc đời, mình lần chuỗi Mân Côi, nhưng đã có bao giờ, ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Mân Côi, và hướng về Chúa thực sự và thật nghiêm túc, để nên giống Chúa như Đức Maria và như Chúa muốn?

III. LỜI KẾT.

Đời sống con người là một cuộc lữ hành tìm về hạnh phúc. Cuộc lữ hành này không thể thực hiện bằng những bước chân, hoặc bằng những phương tiện duy chuyển, nhưng chỉ có thể thực hiện bằng những hành vi nhân linh, nghĩa là những hành vi có ý thức tự do và chọn lựa.

Là người phàm trần, bị tội lỗi đả thương nặng nề, lại bị những vật hữu hình quyến rũ một cách mãnh liệt. Vậy làm sao ta có thể thực hiện cuộc hành trình này cho an toàn?

Thấy rõ sự yếu đuối của ta, Ngôi Lời đã nhập thể nên người đồng hành và hướng đạo chúng ta. Ta chỉ có thể tìm được an toàn thực sự cho hành trình đời mình, khi dám cúi xuống để sống khiêm hạ và đón nhận mọi thánh ý Thiên Chúa như chính Ngôi lời đã sống và nêu gương cho ta.

Ngôi Lời đã nhập thể, trở thành người lữ khách kỳ diệu, gồm thâu trong mình một cách khôn tả cả cái nhân loại, lẫn cái thần linh; cả những biến cố lịch sử và những thực tại vĩnh cửu, những bối cảnh thực tại và những mầu nhiệm, những vui sướng thật trinh trong và những đau thương thật thấm thía.

Càng kỳ diệu hơn, khi khuôn mặt của Đức Maria cứ luôn luôn được nhận ra trong mọi biến cố của Ngôi Lời. Hình như Thiên Chúa đã tiên liệu để mọi mầu nhiệm trong cuộc đời của Người Con đều cần đến sự thông hiệp chặt chẽ của Người Mẹ. Vì thế, các mầu nhiệm của Thiên Chúa được diễn tiến nơi Chúa Kitô, đều mang hình dạng một chặng đường Thiên Chúa đã dự kiến đầy ý nghĩa trước hết cho Đức Mẹ, để rồi qua hình ảnh Đức Mẹ, như một sự báo trước và đại diện, những mầu nhiệm ấy cũng dành cho mọi người chúng ta.

Vì thế, nếu hành trình của Chúa Kitô luôn có người Mẹ hiền của Người là Đức Maria đồng hành, ước mong hành trình nơi mỗi Kitô hữu, đặc biệt là nơi các linh mục của Chúa Kitô, cũng sẽ là hành trình gắn bó với Đức Maria. Vì nếu có Đức Mẹ cùng mang vác trách nhiệm “làm linh mục cho anh chị em” (thánh Augustinô), chúng ta sẽ can đảm hơn, đỡ mệt mỏi hơn vì sẽ cảm thấy mình được nâng đỡ hơn. Nguồn nâng đỡ đó lại chính là lời cầu bàu của Mẹ Thiên Chúa, lại không giúp ta yên tâm và bình an lắm hay sao.

Bởi đó, chuỗi Mân Côi là một trong nhiều phương thế cầu nguyện tốt để ta được gần bên Người Mẹ kính yêu của mình, giúp ta khám phá ngày càng mãnh liệt vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu độ cao cả và trong cuộc đời ta. Để nơi mầu nhiệm cứu độ, cùng với Mẹ, ta trưởng thành trong ơn Chúa. Và nơi cuộc đời trần thế, mọi nơi, mọi lúc, nhất là những khi đối diện với những hoàn cảnh khó khăn, lắm lúc nghiệt ngã, ta có Mẹ đồng hành và ủi an.

Nguyện xin cho cuộc đời linh mục của mỗi anh em chúng ta, trước là được tháp nhập vào chính cuộc đời của Chúa Kitô, để qua Người, ta học và hiểu các mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng như một bài học không thể thiếu trong từng ngày sống, hoạt động và phục vụ của mình. Sau nữa, là gắn bó không ngừng với Mẹ Chúa Kitô, để cùng với Mẹ, như Mẹ và trong Mẹ, ta biết tin tưởng, phó thác, và làm hoàn hảo mầu nhiệm thánh giá của Chúa Kitô nơi chính tâm hồn và cuộc đời linh mục của mình.

  Lm. VŨ XUÂN HẠNH

Mục lục

HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT MÂN CÔI

Từ thế kỷ XIII đến nay, Giáo hội luôn khuyến khích và cổ võ mọi Kitô hữu hãy siêng năng lần hạt Mân côi. Đó là những phút suy gẫm ngắn gọn, đơn giản, nhưng không kém phần thâm sâu về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ được ngỏ với mọi người trong cuộc đời Đức Kitô được toát lược lại thành bốn phần, bắt đầu từ mầu nhiệm nhập thể và đời sống ẩn dật tại Nazaret, cuộc đời rao giảng, rồi đến cuộc tử nạn và phục sinh.

Cả đời Mẹ là đồng hành với Đức Kitô, mọi biến cố trong cuộc đời của Đức Kitô đều là một lời mời gọi Mẹ dấn thân vào một niềm tin đem lại phúc ân bởi trời. Đọc kinh Mân côi là cùng với Mẹ nhìn ngắm trong hân hoan tình yêu cứu độ mà Chúa đang thực hiện cho con người : “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51); đọc kinh Mân côi cũng là nhìn ngắm Mẹ đi bên cạnh Chúa như thế nào, từ lời ‘xin vâng’ trong ngày truyền tin, lúc ngồi dưới chân con mình như một môn đệ, khi đi bên cạnh Đức Kitô trên đường thập giá và ôm xác con mình dưới chân thập giá, khi thấy con mình phục sinh khải hoàn trong vinh quang mang theo muôn vàn hồng ân cho hết thảy những ai tin.

Làm sao có thể nói cho hết được tình thương bao la của Chúa khi mang lấy cái tên của một con người, và cho phép một thụ tạo có thể đặt tên cho Thiên Chúa của mình : “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31). Hân hoan bởi tin vào tình thương của Chúa, lời đáp trả đầu tiên của Mẹ là hai tiếng ‘xin vâng’, hai tiếng đơn sơ của một cô thôn nữ quê mùa chất phác nhưng đã làm cả đất trời thay đổi.

Kinh Mân côi vừa diễn tả tình thương đến quên mình của Chúa đối với từng người vừa cho thấy cái sức mạnh ban ơn cứu độ của đức tin. Nhờ đó, mỗi người có thể hát lên hân hoan lời kinh Kính mừng, vì cái phúc nơi Đức Mẹ là sự mở đầu và thành toàn cái phúc mà Chúa sẽ ban cho những ai tin : “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà …”

Vì thế, kinh Mân côi được coi là một việc đạo đức quí báu cho hết mọi người, từ người quê mùa đến Đức Giáo hoàng. Có đến trên 50 vị Giáo hoàng ban bố văn kiện khuyên lần hạt Mân côi. Riêng Đức Lêô XIII thì trong 18 năm (1883-1901) đã có đến 12 thông điệp nói đến kinh Mân côi.

Kinh Mân côi quí báu vì lời kinh đơn sơ mà lại chứa đựng chân lý cứu độ. Đó chính là sức mạnh của kinh Mân côi, sức mạnh của ánh sáng và chân lý có thể dẹp tan bóng tối và sự lầm lẫn, như lời Đức Mẹ khi dạy thánh Đaminh dùng kinh Mân côi mà chống bè Albigenses.

Đức Cha Dupanloup là một viện sĩ thời danh của Pháp, tác giả cuốn ‘Lettres sur l’éducation des filles’, thường hay nhắc lại câu chuyện này :

Khi mới làm linh mục, ngài thường dạy các em nhỏ chuẩn bị rước lễ lần đầu là nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng dâng mình cho Đức Mẹ, và giữ cho đến chết, thì Đức Mẹ sẽ không bỏ rơi trong giờ phút sau cùng.

Sau này khi ngài làm Giám mục thì có cô con gái duy nhất của một vị tướng bị mắc bịnh ung thư lúc còn trẻ. Cô đã phát bệnh sau khi sinh đứa con đầu lòng năm 20 tuổi. Cả gia đình không biết phải báo tin này như thế nào cho cô nên mới nhờ Đức Cha báo tin và giúp cô dọn mình chết lành. Ngài nhận lời nhưng cũng thấy bối rối vì không biết phải bắt đầu như thế nào. Bước vào phòng bệnh nhân, ngài hỏi :

“Chúa định cho con phải đau đớn quá nhỉ?!”

Nhưng bệnh nhân tươi cười và hỏi lại :

“Đức Cha có tin chắc con được lên thiên đàng không?”

Đức Cha trả lời : “Cha hy vọng Chúa sẽ cho con lên thiên  đàng”.

Bệnh nhân lại nói : “Đức Cha thì hy vọng, còn con thì tin chắc là con sẽ được lên thiên đàng”

“Làm sao mà con lại dám tin chắc là con được lên thiên đàng?”

“Thì chính Đức Cha đã dạy con mà”

Đức Cha ngạc nhiên : “Cha đã dạy con khi nào?”

Cô trả lời : “Khi con học lớp giáo lý chuẩn bị xưng tội rước lễ lần đầu, Đức Cha đã dạy chúng con nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng, và dâng mình cho Đức Mẹ và giữ thói quen này cho đến chết thì chắc chắn là Đức Mẹ sẽ không bao giờ bỏ chúng con. Con đã giữ thói quen đọc ba kinh Kính Mừng mỗi ngày; đặc biệt, từ ngày lập gia đình, con còn đọc thêm mỗi ngày năm chục kinh. Mỗi ngày con nói với Đức Mẹ năm mươi lần ‘Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử’ thì làm sao mà Đức Mẹ bỏ con được?”

Và Đức Giám mục Dupanloup kết luận : “Thay vì tôi yên ủi cô thì cô lại yên ủi tôi”.

Đúng thế, còn gì phải lo âu khi có Đức Mẹ, ‘đấng toàn năng bởi lời cầu nguyện’, ở bên tôi khi tôi đọc kinh Mân côi.

Đức Mẹ đã hiện ra ở Lộ đức với tràng chuỗi trên tay; còn ở Fatima, Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ  Lucia, Phanxicô, và Giacinta đang lần hạt và nhắn nhủ ba mệnh lệnh cho thế giới là ăn năn thống hối, tôn sùng Mẫu tâm, và siêng năng lần hạt Mân côi. Có người mẹ nào thấy con mình đang lâm nạn mà không chạy đến cứu giúp, có khi còn sẵn lòng chết thay cho con?

Đức Mẹ làm gì cho nhân loại hôm nay?

Đức Mẹ tha thiết kêu gọi : “Hãy siêng năng lần hạt Mân côi” 

Lm. HK

Mục lục

Con Đường Nhỏ của Một Vị Thánh Lớn:
Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng (1873-1897)

Thánh Tê-rê-xa thành Li-di-ơ (Lisieux) hay thánh Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng thường được gọi là thánh Tê-rê-xa Nhỏ. Gọi như thế trước hết là để phân biệt với thánh Tê-rê-xa thành A-vi-la (với tên dòng là Tê-rê-xa Giêsu), vị thánh cải tổ dòng Cát-minh hồi thế kỷ 15, mà đôi khi còn có tên là thánh Tê-rê-xa Cả. Và gọi như thế chắc chắn cũng làm hài lòng ngài lắm vì khi sinh thời ngài luôn luôn coi mình là "nhỏ bé", tự ví mình như "bông hoa nhỏ" khiêm tốn giữa đám hoa đồng cỏ nội. Nhưng chúng ta nên biết rằng rất sớm, ngay khi còn là một thiếu nữ ở trong gia đình, Tê-rê-xa đã muốn làm thánh và không phải "làm thánh nửa vời" nhưng làm một vị "đại thánh" (trích nguyên văn lời của ngài). Và quả thực, chẳng bao lâu sau khi người nữ tu trẻ tuổi này qua đời -ngài chết lúc 24 tuổi, chỉ 9 năm sau khi vào dòng Cát-minh--tiếng tăm của ngài đã vang lừng khắp Giáo Hội và ngài đã dấy lên một phong trào rầm rộ những người đi theo "con đường thơ ấu thiêng liêng" của ngài,--đó là một trong những "trường tu đức" (linh đạo) quan trọng nhất của Giáo Hội thời hiện đại.

Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã được phong thánh năm 1925, tức 28 năm sau khi từ trần (thời đó coi là mau lắm), được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê năm 1927 và được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nâng lên hàng tiến sĩ Hội Thánh ngày 19 tháng 10 năm 1997.

Vậy ngài không hề "nhỏ" chút nào!

Sự cao cả của thánh Tê-rê-xa là đã khám phá lại chân lý trọng tâm của Phúc Âm, đó là: trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, và chúng ta phải yêu mến Cha chúng ta trên trời như những đứa con thảo đầy tin tưởng và phó thác. Thánh Tê-rê-xa bám chắc vào giáo lý này với tất cả sức lực của ngài và cố gắng thực hành nó gần như sát mặt chữ. Sống thật sự như trẻ thơ là cách chắc chắn nhất, đơn giản nhất để làm đẹp lòng Chúa Cha. Ngài nói ngài vui mừng vì mình bé nhỏ bởi vì Chúa Giêsu đã dạy chỉ các trẻ em và những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời. Đứa bé càng nhỏ, càng yếu đuối thì lại càng phải và có thể cậy dựa vào lòng thương xót, sự giúp đỡ và chăm sóc tận tình của cha mẹ và những người khác chung quanh.

Tê-rê-xa viết trong Thủ Bản gởi Mẹ bề trên Ma-ri Gông-da-ga năm 1897:

"Thưa Mẹ, như Mẹ biết, con hằng ước ao được nên thánh, nhưng than ôi, mỗi lần sánh mình với các thánh, con đều nhận thấy giữa các ngài và con có một khoảng cách như giữa một ngọn núi cao chót vót và một hột cát ti tiện dưới chân khách bộ hành. Nhưng thay vì thối chí, con lại tự nhủ: Chúa không khơi dậy những ước muốn không thể thực hiện được; dù thấp hèn, con cũng vẫn có thể khao khát nên thánh. Tự làm cho mình lớn lên thì không được, nên con có thế nào thì đành phải chịu như vậy với tất cả những khuyết điểm của con. Nhưng con muốn tìm ra một phương pháp lên trời bằng một con đường nhỏ vừa thẳng lại vừa ngắn, một con đường nhỏ hoàn toàn mới. Chúng ta đang ở trong thế kỷ phát minh, bây giờ không phải leo từng bậc thang nữa; những nhà giàu có đã thay những thang cổ điểm bằng thang máy, thật là tiện lợi. Phần con, con cũng muốn kiếm một cái thang máy để nâng con lên tới Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ quá, chả sao lên được cái thang trọn lành dốc dác. Thế rồi con đi tìm trong Sách Thánh [...] và con đã đọc những lời sau đây phát xuất từ miệng Đấng Khôn Ngoan muôn đời: 'Ai thật bé nhỏ thì hãy đến với Ta' (Châm ngôn 9,4) [...]. Thế rồi con đã đến vì con đoán con đã gặp được điều con đang tìm kiếm [...]. Chiếc thang máy đưa con lên tận trời là chính đôi cánh tay Chúa đấy, Chúa Giêsu ôi! Vì thế mà con chả cần phải lớn lên, trái lại con cần phải cứ bé hoài và càng ngày sẽ càng bé dần đi mãi. Ôi lạy Chúa, Chúa đã ban cho con hơn sự con mong đợi, và con, con muốn ca ngợi lòng thương xót của Chúa..." (Thủ bản Tự Thuật, Hương Việt dịch, Sài Gòn 1967, tr. 188-189).

Áp dụng "phương pháp lên trời" hay sử dụng "chiếc thang máy" này, thánh Tê-rê-xa không cần phải tìm kiếm những việc cao siêu, to tát, nổi bật, chỉ cần phải rèn luyện cho mình thái độ làm con, và làm con bé nhỏ của Cha trên trời, ấy là hết lòng yêu mến, tin tưởng, phó thác. Mọi sự đều để mặc Cha lo, dù đầy khuyết điểm hay tội lỗi cũng không sợ! Càng tiến sâu vào con đường này, ngài càng được tình yêu Chúa chiếm đoạt trọn vẹn hơn, và ngài đưa tình yêu đó thấm nhuần mọi việc ngài làm, mọi khó khăn thử thách ngài gặp phải, mọi sự khó chịu của cuộc sống chung, v.v., biến tất cả thành những lễ vật dâng lên Chúa. Biết mình nhỏ bé, ngài luyện tập những nhân đức nho nhỏ; thích âm thầm chuyên lo làm vui lòng Chúa bằng những hy sinh nhỏ mọn mà chỉ một mình Chúa biết; ngài không bỏ qua một dịp hy sinh nào có được và cố gắng làm cho đời mình thành một cuộc tử đạo vì tình yêu Chúa. Chẳng hạn: uống thuốc đắng từng giọt để "kéo dài một việc hãm mình nhỏ mọn"; trong công việc chung, chọn những phần khó nhọc hơn, hay khi trời nóng, chọn nơi ngồi bất tiện hơn cho mình để dành chỗ mát mẻ cho chị em; chấp nhận cho kẻ khác đến quấy rầy mình; tránh tìm kiếm tiện nghi, v.v. Có tình yêu thì việc nhỏ sẽ trở thành việc có giá trị lớn. Thánh nữ gọi làm những việc như thế là "tung hoa" cho Chúa:

"Vâng lạy Đấng lòng con yêu mến, cuộc đời con sẽ tiêu hao như vậy đó ... Con không có phương pháp nào khác để minh chứng với Chúa tình yêu của con ngoài việc tung hoa, nghĩa là không để mất một hy sinh nhỏ nào, một cái nhìn nào, một lời nói nào; con sẽ lợi dụng tất cả mọi việc nhỏ nhặt nhất và làm chúng với cả một tâm tình yêu mến... Con muốn chịu đau khổ vì yêu mến, như vậy con sẽ tung hoa trước ngai Chúa; hễ gặp bất cứ bông hoa nào là con cũng rứt cánh dâng cho Chúa ... rồi tay thì tung hoa, miệng thì ca hát (làm sao có thể khóc được khi làm một việc vui như thế), và con sẽ hát ngay cả khi phải hái những bông hoa giữa gai góc, mà gai góc càng dài càng đâm đau bao nhiêu, tiếng hát của con càng du dương bấy nhiêu [...] Ôi Giêsu của con, con mến Chúa, con yêu Giáo Hội Mẹ con; con nhớ rằng "hành động nhỏ bé nhất mà do tình yêu tinh tuyền sẽ có ích hơn là tất cả những công trình khác hợp lại với nhau' (Thánh Gio-an Thánh Giá)" (Trích Thủ bản Tự Thuật, tr. 181).

Thánh Tê-rê-xa nhìn nhận rằng Thiên Chúa toàn năng đã làm cho ngài những việc trọng đại, và việc trọng đại nhất là cho ngài biết sự bé nhỏ và bất lực của mình (x. Thủ bản, tr 191). Từ sự ý thức đó, ngài đã rút ra cho mình một phương pháp đơn sơ, không chút cầu kỳ để đến với Chúa, mà người ta gọi là con đường thơ ấu thiêng liêng. Lời sau đây mà ngài đã nói với người chị ruột Marie du Sacré-Coeur trong một lá thư đề tháng 9 năm 1896, là một lời đầy khích lệ đối với chúng ta hôm nay:

"A, nếu hết mọi linh hồn yếu đuối và bất toàn cảm thấy điều mà linh hồn bé bỏng nhất trong mọi linh hồn, tức là linh hồn Tê-rê-xa nhỏ bé của Chị, thì sẽ không một ai ngã lòng trên đường lên núi tình yêu, vì Chúa Giêsu đâu có đòi những việc vĩ đại mà chỉ đòi sự phó thác và tri ân..." (Thủ bản, tr. 171).

Thánh Tê-rê-xa đã đưa lý tưởng nên thánh đến gần và vừa tầm với mọi người.

(24-9-2007)

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

MAURO PRIMAVERA: GIÃ TỪ NGHỀ LÀM NGƯỜI MẪU THỜI TRANG ĐỂ ĐI TU

 

Lúc ấy, Mauro Primavera là một thanh niên 29 tuổi, sinh trưởng tại thành phố Chieti, trung Italia. Từ năm 1991, Mauro làm nghề người mẫu thời trang nổi tiếng thế giới, dạo bước trên những bục cao trong các nhà trình diễn những bộ y phục tuyệt đẹp dưới ánh đèn màu lộng lẫy. Nhờ một thân thể cường tráng của một lực sĩ và một khuôn mặt đẹp tựa thiên thần, Mauro rất được các nhà sản xuất y phục thời trang ưa chuộng. Cuộc đời như nhuộm màu hồng trải dài trước mặt người thanh niên trẻ đẹp này.


Thế mà Mauro lại không cảm thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại. Những thành công nghề nghiệp rực rỡ, tiền tài và danh vọng không lấp đầy được khoảng trống tâm hồn. Sau những buổi trình diễn thời trang đầy tiếng vỗ tay vang dội dưới ánh đèn muôn màu, bóng tối lại vây phủ tâm hồn chàng. Mauro đi vào một cuộc khủng hoảng nội tâm trầm trọng. Cũng trong thời gian này, Mauro quen biết các Cộng đoàn tân dự tòng (neo-catecumenali), một phong trào hoạt động tông đồ giáo dân rất phổ biến tại Italia và anh bắt đầu lui tới tham dự các buổi họp mặt của phong trào. Và rồi năm 1998, Mauro Primavera đã đi đến một quyết định đổi đời là từ bỏ mọi danh vọng nghề nghiệp để bước vào con đường tận hiến làm người rao giảng Tin Mừng của Chúa tại bất cứ nơi nào cần đến.


Quyết định này tựa như tiếng sét nổ giữa bầu trời chói nắng xanh biếc. Tại thủ đô thời trang Milano, bắc Italia, ai ai cũng biết đến người nam kiểu mẫu nổi tiếng này, vẫn được nữ giới mê như điếu đổ. Người ta không thể hiểu lý do nào đã khiến ngôi sao sáng rực rỡ trong những buổi trình diễn dạ hội này tự ý rút ra khỏi cuộc vui để dấn thân trên đường gió bụi. Nhưng cha Angelo Masciarelli, cha sở giáo xứ tại Chieti, người đã từng quen biết Mauro từ ngày còn bé, thì không hề ngạc nhiên chút nào cả. Cha biết rõ gia đình của Mauro, với cha mẹ là những người dấn thân phục vụ trong phong trào tự nguyện. Tuy rằng có một thời gian, hình như Mauro xa rời Giáo Hội, nhưng hồi năm 1998, người trai trẻ này có đến tìm gặp cha xứ tỏ bày nguyện vọng muốn đi theo Chúa và cám ơn cha Angelo đã ươm mầm mống ơn gọi vào sâu trong hồn mình những ngày còn thơ.

 

Ngay giữa nhóm bạn bè cố hữu, Mauro cũng thường nổi bật là một người hay suy tư và tốt lành đối với tha nhân. Ngay cả khi nổi tiếng như cồn, Mauro cũng vẫn giữ sự bình dị đơn sơ trong tâm hồn. Sau các buổi trình diễn thời trang tại những thủ đô đó đây trên thế giới, mỗi khi trở lại thăm nhà, Mauro vẫn thích tụ họp bạn bè ngày xưa để trò chuyện thăm hỏi mọi người.


Đầu tháng 9.1998 , Mauro đã chính thức từ giã ánh đèn màu lộng lẫy của thế giới thời trang để gia nhập chủng viện ”Redemptoris Mater” tại Newark, Hoa Kỳ. Đây là một chủng viện đặc biệt vì sau thời gian huấn luyện thần học kéo dài ba năm, các chủng sinh sẽ trở thành những linh mục truyền giáo, theo Con đường Tân dự tòng, sẵn sàng đến hoạt động tại bất cứ giáo phận nào thiếu thốn linh mục hay tại những vùng chưa được biết đến Lời Chúa. Trong khóa học năm ấy, cùng với 70 chủng sinh khác đến từ 29 quốc gia thuộc khắp năm châu, thầy Mauro vừa theo môn thần học tại đại học Seton Hall, vừa hoạt động trong các cộng đoàn tân dự tòng và phục vụ người nghèo và người bệnh.


Một trong những nhà sản xuất thời trang nổi tiếng thế giới là ông Carlo Pignatelli, rất ngưỡng mộ Mauro Primavera như là người kiểu mẫu, tuyên bố như sau: ”Tôi đã đích thân theo dõi Mauro ngay từ khi mầm mống ơn gọi bắt đầu nhen nhúm trong tâm hồn thầy và tôi hiểu ngay là mình đang đứng trước một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn và lớn lao. Mauro đã đạt đến đỉnh cao danh vọng trong nghề nghiệp người mẫu thời tranh, được các hãng sản xuất tiếng tăm như Versace hay Pignatelli thi nhau mời trình diễn, được người đời ngưỡng mộ theo đuổi. Thế mà chàng không ngần ngại từ bỏ tất cả danh vọng thế trần để đi theo ơn gọi của Chúa, sống đời tận hiến cho vinh quang Nước Trời”.


Trước thầy Mauro, có một người kiểu mẫu nổi tiếng khác là Antonella Moccia đã rời bỏ các buổi trình diễn thời trang để đi tu, lột bỏ những bộ y phục lộng lẫy đắt giá để mặc lấy chiếc áo đơn sơ của đời tận hiến. (IL MESSAGGERO 15.09.99)




 

Mai Anh

Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Khi vợ chồng dạy con mỗi người một phách

Thấy cậu con trai hì hụi xào nấu, anh Chuẩn bực bội mắng vợ: "Cô định biến nó thành đàn bà đấy à". Dù chị giải thích: "Thằng bé thích giúp mẹ và nếu tự nấu nó sẽ ăn được nhiều hơn", anh vẫn nhất quyết bắt con ra khỏi bếp.

Đây chỉ là một trong rất nhiều lần hai vợ chồng anh Chuẩn, chị Vân ở khu bán đảo Linh Đàm, Hà Nội cự nự nhau về chuyện dạy con. 

Khi bố mẹ chẳng ai chịu ai

Chị Vân làm việc cho một tổ chức phi chính phủ của nước ngoài nên rất hay tham khảo sách báo và kinh nghiệm của bạn đồng nghiệp về giáo dục trẻ và áp dụng với cậu con đầu lòng. Thế nhưng, anh Chuẩn lại cho rằng: "Đó chỉ là một mớ lý thuyết suông, con mình mình hiểu, làm sao phải nhờ cậy đến ông nọ bà kia ở tận đâu đâu". Vì thế, quan điểm chị đưa ra anh đều phản bác. Ví như, chị muốn xây dựng cho con tính tự lập nên muốn để cậu bé tự xúc đồ ăn và ra ngủ riêng từ bé thì anh lại bảo: "Mình cô Tây hóa là đủ rồi chứ đừng bắt nó sống thế, rồi nó đâm xa cách, thiếu tình cảm với gia đình".

Chị cũng không vừa: "Thế anh muốn nó như anh chắc, bảo thủ, vô tâm".

Thấy vợ cãi lại, anh Chuẩn cho rằng chị cậy mình có thu nhập cao, giỏi giang sinh coi thường chồng. Từ đó, không chỉ chuyện dạy con, việc gì dù nhỏ nhặt nhất, hai người cũng khó thống nhất và chia sẻ với nhau.

Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Mùi, giảng viên khoa Tâm lý - Giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội, xung đột về cách giáo dục con cái dù ít hay nhiều đều tồn tại ở tất cả các gia đình. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vợ chồng dẫu sao vẫn là hai cá thể với cá tính khác nhau, sống ở hoàn cảnh và môi trường giáo dục không như nhau. Vấn đề là khi đã là một gia đình, có "tác phẩm" chung thì dù mâu thuẫn, họ cần biết lắng nghe, bàn bạc và thống nhất với nhau để giúp con phát triển tốt.

Tuy nhiên, có những đôi xung khắc hoàn toàn kiểu như "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" khiến đứa trẻ không biết đâu là đúng, đâu là sai và mất cả niềm tin vào cha mẹ. Cũng có cặp vợ chồng, người này muốn áp đặt cách dạy con của mình lên người kia. Chẳng hạn bố là người gia trưởng muốn tỏ quyền uy, giáo dục con theo cách của mình và bắt mẹ phải làm theo. Điều này cũng nguy hiểm không kém, nhất là khi người kia bề ngoài tỏ vẻ phục tùng nhưng sau lưng lại ngấm ngầm phản bác bằng cách chỉ bảo con theo cách ngược lại.

Như trường hợp gia đình chị Nhã, anh Xuân ở Cầu Giấy, Hà Nội là ví dụ.

Là một chủ doanh nghiệp khá thành đạt, anh Xuân muốn cô con gái mình sau này cũng phải thật nổi trội. Anh cho con tham gia các lớp học năng khiếu rồi thuê người về dạy kiến thức, dạy đàn từ khi cô bé 4 tuổi. Không những thế, anh còn thường xuyên mang con đi theo các buổi tiệc tùng "để cho nó tự tin, bạo dạn, sau này còn làm nhà ngoại giao". Mặt khác, anh cũng rất nghiêm khắc, chỉ cần con mắc lỗi hay có kết quả học tập không được như ý là mắng và phạt ngay.

Thấy con gái không được chơi đùa như các bạn, chị Nhã xót lòng nhưng vốn sống phụ thuộc vào chồng nên chẳng cãi lại, chỉ giấm giúi chiều chuộng con rồi oán trách anh.

Cứ thế, cô bé đâm ngày càng xa cách bố và biết tận dụng sự nuông chiều của mẹ để thỏa mãn những đòi hỏi của mình. Anh Xuân cũng dần nhận ra điều này và chẳng tiếc lời chì chiết vợ. Hai vợ chồng tuy không có những cuộc cãi vã nảy lửa nhưng ai cũng mang bộ mặt lạnh tanh và nhìn nhau bằng ánh mắt thù địch. 

Cần nhất sự tôn trọng và lắng nghe nhau

Bà Mùi cho rằng, vợ chồng, nếu biết phát huy đặc trưng về giới trong vai trò dạy con sẽ có hiệu quả rất cao. Chẳng hạn, người cha thường có cái "uy" riêng có thể chỉ bảo hướng dẫn con, đặt ra những mục tiêu cho con phấn đấu hay kìm hãm những ước muốn không đúng của trẻ và uốn nắn các tật xấu. Người mẹ bằng tình yêu thương sẽ nâng đỡ về tinh thần, giúp con phát triển cảm xúc, cho con cảm giác tự tin, an toàn. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là cha không thể hiện tình cảm bằng cách âu yếm, nựng nịu hay mẹ thì chẳng bao giờ mắng mỏ, uốn nắn con.

Điều quan trọng nhất là các bậc cha mẹ phải xác định được mình mong muốn con trở thành người như thế nào, trên cơ sở đó để cùng thống nhất về cách dạy dỗ, từ việc định hướng cho con đến việc áp dụng các biện pháp khen thưởng hay trách phạt…

Nếu trong quá trình dạy dỗ, hai vợ chồng không thể thống nhất trong một tình huống nào đó, tốt nhất, hãy tôn trọng nhau, đừng cố giành thắng thua và tối kỵ xúc phạm nhau trước mặt con cái hay lôi kéo con về phía mình. Sau đó khi cả hai cùng bình tĩnh lại, hãy trao đổi để có được tiếng nói chung trong việc giáo dục trẻ.

Chuyên gia tâm lý khuyên, các bạn trẻ nên học làm cha mẹ trước khi có con, học từ sách vở, thực tế cuộc sống hay cả những khóa dạy bài bản. Hai người hãy bàn bạc với nhau cách xử lý các tình huống với con cái từ khi nó chưa xảy ra, có thể qua các câu chuyện trên phim ảnh, ngoài đường hay bên nhà hàng xóm để tích lũy kinh nghiệm cho chính mình.

Minh Thùy

Mục lục

GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO

Trong Thư Mục Vụ tháng 8 của Giáo phận Phú Cường, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ đã kêu gọi chúng ta: “Sống ơn gọi nên thánh và sứ vụ chứng nhân”. Vậy chúng ta hãy hưởng ứng lời kêu gọi đó trong gia đình mình suốt Năm Sống Đạo này.

Chúa phán: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên Trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48). Sống đạo trong gia đình là cố gắng giúp nhau nên hoàn thiện, là chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa giao phó cho đôi vợ chồng khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối.

Sứ mệnh đó là đón nhận và sống Lời Chúa, là yêu thương nhau trong gia đình và lan tỏa tình yêu ấy đến những người chung quanh. ĐTC Gioan-Phaolô II viết: “Trong Giáo Hội, gia đình là một giáo hội thu nhỏ, là nơi tiếp nhận và loan báo Lời Chúa. Mọi đôi bạn phải là sứ giả của tình yêu và sự sống, như một dấu hiệu sáng chói của sự hiện diện của Chúa Kitô và tình yêu của Ngài, đối với những ai còn ở xa, đối với những gia đình chưa tin và cả đối với những gia đình Kitô hữu không sống cách phù hợp với đức tin họ đã tiếp nhận."

Để chu toàn sứ mệnh đó, gia đình phải trở nên đền thờ của Thiên Chúa nhờ yêu thương nhau và cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau tham dự các nghi lễ phụng vụ của Giáo Hội, cùng nhau làm việc tông đồ bằng cách tiếp đón mọi người, sống đức công bình và bác ái đối với tha nhân. Thánh Công Đồng Vatican II dạy: "Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình trở nên đền thờ của Giáo Hội trong nhà mình, nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, nếu tất cả gia đình cùng tham dự vào việc phụng vụ của Giáo Hội, và sau cùng nếu gia đình tỏ ra hiếu khách và cổ võ đức công bằng cũng như những việc thiện khác giúp các anh em đang túng thiếu." (Hiến chế Tông Đồ Giáo Dân, số 11d).

1. Sống ơn gọi nên thánh.

Hãy xin Chúa và Mẹ Maria làm chủ gia đình mình. Phú dâng mọi người trong gia đình cho Chúa và xin Ngài luôn hiện hiện trong gia đình. Nhờ đó, vợ chồng sẽ hiệp nhất với nhau trong thể xác cũng như tinh thần, trong tình yêu cũng như trong công việc. Thánh Phêrô nhắc nhở: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nếp ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em. Vì có lời Kinh Thánh chép rằng: hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh" (1Pr 1,15-16).

Vì gia đình là đền thờ của Thiên Chúa, nên lời ăn tiếng nói của các thành viên trong gia đình phải lịch sự, nhã nhặn, ôn tồn. Mọi cử chỉ hành vi phải thấm đẫm tình bác ái yêu thương. Mọi ý nghĩ tư tưởng phải trong sáng, chan hòa, vị tha. Mọi công việc phải được thánh hóa bằng những lời cầu nguyện.

a. Yêu thương nhau.

Có yêu thương nhau mới làm cho gia đình thành đền thờ của Thiên Chúa. Yêu là cho đi mà không mong đền đáp. Thậm chí là cho hết và cho cả chính mình. Chúa phán: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Ga 15,13). Vì thế, yêu là hiến mạng sống mình cho người mình yêu, là hy sinh tất cả cho người mình thương mến. Chỉ yêu như Chúa yêu mới đem lại cho gia đình niềm vui đích thật và hạnh phúc bền vững. Có câu danh ngôn này: “Tình yêu bắt đầu từ trong gia đình”. Thật vậy, nếu những người thân trong gia đình mà chúng ta không yêu thương được thì làm sao chúng ta có thể yêu thương người khác như Chúa đã dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).

Hơn nữa, tình yêu cần được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, nếu không, thì chỉ là tình yêu giả dối. Thánh Gioan đã cảnh giác: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18).

b. Xin lỗi và tha thứ.

Nếu biết xin lỗi nhau và biết tha thứ cho nhau, là chúng ta đang làm cho tình yêu vô tận của Thiên Chúa tràn vào đời sống gia đình chúng ta.

Trong thơ gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô viết: “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng" (Ep 4,27). Nếu biết xin lỗi nhau và tha thứ cho nhau thì ma quỷ không tài nào thừa cơ lợi dụng được. Trong đời sống gia đình, có những đôi bạn ngày càng cảm thấy xa nhau, vì họ đã để chồng chất quá nhiều lỗi lầm. Nếu mỗi ngày chúng ta biết quét sạch những lỗi lầm nhỏ bằng lời xin lỗi, bằng sự tha thứ, thì chắc chắn chúng ta sẽ được sống trong bình an và hạnh phúc.

Người ta có cảm tưởng xin lỗi là hạ mình trước người kia và tha thứ là mình ở trên người đó. Hiểu như thế là hiểu theo cách thế gian, là đứng vào vị trí của kẻ kiêu ngạo. Trong tình yêu, không có chỗ cho sự kiêu ngạo. Chúng ta đều là những kẻ có tội. Khi lỡ nóng giận, hay khi lỡ lời làm mất lòng ai đó, khi có cử chỉ hay hành động không đúng, chúng ta hãy can đảm nhận lỗi và khiêm tốn xin lỗi. Khi xin lỗi là chúng ta muốn người kia yêu thương chúng ta với tất cả những yếu hèn của mình. Và ngược lại, khi tha thứ là chúng ta muốn yêu thương người thân của chúng ta như Chúa đã yêu. Hãy sống khiêm nhượng để biết xin lỗi và sống yêu thương để biết thứ tha.

c. Cầu nguyện.

Con người không thể sống mà không có ơn Chúa. Chúa phán: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Trong đời sống gia đình chúng ta rất cần ơn Chúa để vượt qua những cơn sóng gió. Muốn có ơn Chúa chúng ta cần phải cầu nguyện.

Mỗi tối, hãy đọc một đoạn Phúc Âm. Sau đó thinh lặng suy niệm, rồi cùng nhau cầu nguyện cho chính mình, cho những người thân, cho công ăn việc làm, cho việc học hành của con cái, cho những khó khăn đang đến với gia đình.

Những giây phút cùng nhau cầu nguyện sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, sẽ làm cho tình vợ chồng, cha mẹ con cái nên keo sơn thắm thiết, vì tất cả gia đình được liên kết mật thiết với Chúa. Đấy là giây phút mà Lời Chúa thấm vào tâm hồn đôi bạn và con cái, chữa lành mọi vết thương lòng, cũng là giây phút bên nhau cùng nghỉ ngơi trong Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa và được Ngài bồi sức sau một ngày lao nhọc.

Cầu nguyện phải đi dôi với lòng tin tưởng. Cầu nguyện rồi để Chúa hành động. Có khi Ngài dẫn chúng ta đi con đường khác hẳn những gì chúng ta mong chờ. Nhưng Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan, lại yêu thương chúng ta vô vàn, nên Ngài sẽ dẫn chúng ta đi trên con đường thích hợp và tốt đẹp nhất cho ơn gọi của chúng ta, cho cuộc đời của chúng ta.

Cầu nguyện không chỉ là cầu xin mà còn là cảm tạ, chúc tụng Chúa: Thánh Kinh viết: “Trong mọi trường hợp, ta hãy chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa ta, ta hãy xin Người làm cho đường ta đi được ngay thẳng" (Tb 4,19). Những lúc sầu khổ nhất, ta càng phải cảm tạ Chúa nhiều hơn. Vì chính những lúc ấy, chúng ta lãnh nhận ơn Ngài nhiều nhất, ơn biến nước mắt của ta hôm nay thành nụ cười ngày mai: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng" (Tv 125,5).

d. Thánh Lễ và các Bí Tích.

Giáo Hội buộc tham dự Thánh Lễ Chúa nhật và lễ Trọng, phải lãnh nhận các Bí Tích để hiệp thông với Chúa và Giáo hội. Chúa Giêsu ở giữa Giáo Hội như cây nho và cành nho. Người phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành" (Ga 15,5). Không cành nào lìa cây mà không bị khô héo. Cũng vậy, không gia đình nào hờ hững tham dự Thánh Lễ và chịu các Bí tích mà có thể sống đạo được. Vả lại, khi được Rửa Tội, chúng ta được tham dự vào chức Tư Tế, Tiên Tri và Vương Giả của Chúa Giêsu. Chức tư tế của chúng ta là để cho việc tham dự Thánh Lễ..

Khi lãnh nhận Phép Hôn Phối, đôi vợ chồng được Chúa Kitô kết hiệp để nên như dấu chứng của sự kết hiệp giữa Chúa Kitô với Hiền Thê của Ngài là Giáo Hội. Người khinh dể Bí Tích Hôn Phối là người ngoại tình, hay là người bỏ vợ hay chồng mình, người ấy đang phạm tội trọng, không xứng đáng với cương vị làm con Chúa và con Giáo Hội.

2. Sống sứ vụ chứng nhân.

Chứng nhân là làm tông đồ để Nước Chúa mau trị đến. Nhờ đó, Ơn Cứu Rỗi đến được với mọi người. Muốn có kết qủa tốt đẹp trong sứ vụ chứng nhân, chúng ta phải nhân danh Chúa Giêsu mà làm. Đúng như lời thánh Phaolô: “Hết thảy công việc anh em làm trong lời nói hay việc làm, hãy nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà thực hành, nhờ Người để cảm tạ Chúa Cha là Thiên Chúa" (Cl 3, 17). Nhờ nhân danh Chúa Giêsu, mà sứ vụ chứng nhân của chúng ta nên hoàn thiện.

a. Chứng nhân của tình yêu và sự sống.

Đối với gia đình, làm chứng nhân trước hết, là làm “sứ giả của tình yêu và sự sống". Đó là giữa vợ chồng phải có tình yêu bất khả phân ly, là phải ước muốn truyền lại sự sống và bảo vệ sự sống. Để rồi, bằng đời sống vợ chồng như thế, chúng ta chứng tỏ cho mọi người biết Nước Trời đang ở giữa họ.

Làm chứng nhân đối với bậc cha mẹ thì bằng gương sáng hơn là bằng lời nói, là huấn luyện con cái biết tôn kính Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội và say mê làm việc tông đồ. Còn đối với con cái là sống kính trên nhường dưới, thảo hiếu với ông bà cha mẹ, anh em thuận thảo với nhau, và sống chan hòa với mọi người.

b. Chứng nhân bằng cách đón tiếp.

Làm chứng nhân bằng cách đón tiếp những ai cơ nhỡ, những người cần sự trợ giúp của chúng ta. Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong cuốn sách Đường Hy Vọng đã viết: “Gia đình công giáo làm tông đồ bằng tiếp đón. Mở rộng nhà các con và đồng thời mở rộng lòng các con. Nhà nào lại không có khách? Tiếp đón là cách thế tiện nhất, tự nhiên nhất, để làm chứng tích về tình yêu, về sự hiệp nhất, về niềm vui, về cởi mở... Nghệ thuật tiếp đón sẽ trở nên tông đồ tiếp đón. Các con hãy sống và làm cho những ai đến gia đình các con đều thèm sống như các con." (ĐHV. Số 503).

c. Chứng nhân bằng sống công bình bác ái.

Làm chứng nhân bằng cách sống đức công bình và bác ái một cách triệt để. Công Đồng Vatican II dạy: “Trong các việc tông đồ của gia đình, cần phải kể đến những việc như: nhận làm con nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi, ân cần tiếp đón những khách lạ, cộng tác với học đường, khuyên bảo và giúp đỡ thanh thiếu niên, giúp những người đã đính hôn chuẩn bị cho việc hôn nhân của họ được tốt đẹp, giúp dạy giáo lý, nâng đỡ những đôi vợ chồng cũng như những gia đình khi họ gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần, lo cho những người già cả không có những điều kiện cần thiết, mà cung cấp cho họ những tiện nghi chính đáng của tiến bộ kinh tế." (Tông Đồ Giáo Dân, số 11d).

Kết luận

Sống đạo là sống ơn gọi nên thánh và sống sứ vụ chứng nhân của mình. Nhưng nhiều lúc chúng ta nản chí chùn chân. Những lúc ấy, hãy noi gương Chúa Giêsu “Đi ra nơi thanh vắng và cầu nguyện" (Mc 1, 45). Đó là những ngày tĩnh tâm, ít nhất là một năm một lần, để chúng ta kín múc ơn sủng của Chúa, bồi bổ lại sinh lực. Nhờ đó, chúng ta lại tiếp tục sống giữa trần thế, để chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó cho gia đình, là sống ơn gọi nên thánh và sống sứ vụ chứng nhân.

Có Chúa Giêsu và Mẹ Maria hiện diện, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn dìu dắt, gia đình chúng ta sẽ đem ánh sáng Tin Mừng chiếu soi thế giới. Chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui và bình an mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai quyết tâm sống đạo cách chân thành và nhiệt thành.

Thiên Phúc

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

LTS : Quý độc giả thân mến !

Tuần qua, trong mục Tin tức Giáo hội chúng tôi đã đưa tin, trong dịp giỗ 5 năm Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời Toà thánh đã chính thức mở án phong chân phước cho ngài. Kể từ tuần này, mục đọc sách chúng tôi xin giới thiệu nội dung tập sách “ Năm chiếc bánh và hai con cá” để chúng ta cùng nhìn lại cuộc đời Đức cố Hồng y theo linh đạo hy vọng.

NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ

Lời mở đầu

Các bạn trẻ thân mến,

Đứng giữa quang cảnh tuyệt vời, đồi lúa chín vàng, biển rộng mênh mông một màu xanh da trời, với những làn sóng bạc, tôi nghĩ ngay đến Chúa Giêsu đang nói chuyện với dân chúng. Nhìn khuôn mặt các bạn với đôi mắt Chúa Giêsu, từ đáy lòng tôi muốn kêu lên: “Các bạn trẻ thân mến, tôi yêu các bạn! Yêu các bạn rất nhiều!”

Tôi rút cảm hứng từ Phúc âm Thánh Gioan chương 6, để nói chuyện với các bạn. Hãy đứng dậy, mời các bạn nghe lời Chúa.

Phúc âm Chúa Giêsu theo thánh Gioan:

Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp rằng: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người biết mình sắp làm gì rồi. Ông Phi-líp đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi”. Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý (Ga 6, 5-11).

* * *

Trên đường tiến đến Năm Thánh 2000, chúng ta tìm hiểu:

- Chúa Giêsu là ai?

- Tại sao ta yêu mến Ngài?

Làm thế nào phó thác mình cho tình yêu của Chúa, cho đến mức độ chọn lựa Ngài một cách tuyệt đối, không ngại tiến bước trên đường xa thẳm, không ngại nhọc nhằn lê bước dưới trời nắng oi ả, chẳng kiếm đâu ra một chút tiện nghi?

Trong Sứ điệp gửi các bạn trẻ nhân ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ XII, năm 1997 tại Paris, Đức Thánh Cha viết:  

Hiệp thông với toàn thể dân Chúa đang tiến đến năm Đại Toàn Xá 2000, tôi kêu mời các bạn nhìn kỹ vào Chúa Giêsu. Ngài là Thầy và là Chúa của đời ta. Hãy suy niệm lời Phúc âm Thánh Gioan (Ga 1, 38-39):

- Thưa Thầy, Thầy ở đâu?

- Hãy đến rồi sẽ thấy.

Bản thân tôi đã từng là một thanh niên như các bạn, rồi làm Linh mục, Giám mục. Tôi đã đi qua một quãng đường, hân hoan có, lao khổ có, tự do có, lao tù có, nhưng luôn luôn tràn trào hy vọng.

Tôi thật lúng túng mỗi khi người ta yêu cầu tôi thuật lại kinh nghiệm bản thân, đã chọn Chúa Giêsu và bước theo Ngài thế nào. Nói về mình không hay tí nào. Nhưng tôi đã đọc cuốn: “Những bất ngờ của Thiên Chúa” (tiếng Pháp là “Les imprévus de Dieu”). Tác giả là Đức Hồng Y Leo Suenens (Bỉ). Một hôm ngài hỏi bà Veronica: “Tại sao bây giờ bà chấp nhận cho tôi viết về cuộc đời của bà, mà trước đây bà lại không cho?” - “Vì bây giờ con hiểu rằng đời con không thuộc về con mà thuộc về Chúa hoàn toàn. Chúa muốn xếp đặt thế nào có lợi ích cho các linh hồn thì mặc ý Chúa”. Đức Gioan Phaolô II đã cô đọng tư tưởng ấy trong cuốn tự thuật, đề là “Hồng ân và mầu nhiệm - Dono e mistero”, cũng như Đức Mẹ đã nói lên trong kinh Magnificat.

Các bạn trẻ yêu mến,

Chính vì thế mà tôi làm như Chúa Giêsu trong bài Phúc âm, Ngài đã lấy năm chiếc bánh và hai con cá mà cho, nào có thấm vào đâu với mấy nghìn người, nhưng đó là tất cả, Chúa Giêsu đã làm tất cả, đó là “hồng ân và mầu nhiệm”. Cũng như cậu bé trong Phúc âm, tôi tóm tắt kinh nghiệm sống của tôi trong bảy điểm: Năm chiếc bánh và hai con cá. Không đáng gì nhưng là tất cả những gì tôi có. Phần còn lại, Chúa Giêsu sẽ liệu.

Nhiều lúc tôi cảm thấy khó chịu trong lòng vì người ta phỏng vấn, muốn thúc giục tôi nói những chuyện giật gân, trong thời gian lao tù, v.v... Đó không phải mục đích của tôi. Nguyện vọng lớn nhất của tôi là trao lại cho các bạn trẻ một sứ điệp của tình thương và sự thật, của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa giải, để xây dựng.

Tôi muốn chia sẻ với các bạn trẻ, làm thế nào gặp Chúa Giêsu:

- Trong mỗi giây phút của cuộc đời,

- Trong sự phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa,

- Trong lúc cầu nguyện và sống lời Chúa,

- Trong phép Thánh Thể,

- Trong những người anh chị em khắp nơi,

- Trong Mẹ Maria.

Dưới ánh sáng của 24 ngôi sao chiếu soi dẫn đường tôi đi, cùng với các bạn trẻ, tôi muốn la vang lên:

“Hãy sống theo chúc thư Chúa Giêsu! Hãy tiến lên, bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng!”

Rôma, ngày 2 tháng 2 năm 1997

Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh.

+ Fx. Nguyễn Văn Thuận, TGM

 

1. CHIẾC BÁNH THỨ NHẤT: SỐNG PHÚT HIỆN TẠI

 

Các bạn có thể gặp Chúa Giêsu, dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi ngày!...Đây là chiều kích nền tảng của sự gặp gỡ đó:  Không phải các bạn gặp một biến cố hay một sự vật gì đó, nhưng các bạn gặp một con người, đó là Thiên Chúa hằng sống.

(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 1)  

Tên tôi là Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, người Việt Nam.  Đối với người ngoại quốc tên tôi khó đọc, nên ở Tanjania, Nigeria, Đại Hàn, Đài Loan, các bạn trẻ gọi tôi là “Bác Francis” (Uncle Francis) hay đơn giản hơn nữa là “Francis!” 

      Đến 23-4-1975 tôi làm Giám mục đã được tám năm, tại Nha Trang, Trung phần Việt Nam, Giáo phận đầu tiên Tòa Thánh trao phó cho tôi.  Tôi đã sống những ngày tháng hạnh phúc ở đó và Nha Trang vẫn chiếm một chỗ đặc biệt trong quả tim tôi.  Ngày 23-4-1975, Đức Phaolô VI đã đặt tôi làm Tổng Giám mục phó Sàigòn.  Khi cộng sản đến Sàigòn, họ đã bảo rằng:  “Việc bổ nhiệm một Giám mục một tuần trước khi chúng tôi đến Sàigòn là một âm mưu giữa Vatican và đế quốc, nhằm tổ chức chống cộng sau này”. 

      Ba tháng sau, ngày 15-8-1975, tôi được mời vào Dinh Độc lập lúc 2 giờ chiều và bị bắt ở đó. 

      Đêm đó, trên đường dài 450 km, xe công an chở tôi về nơi quản thúc.  Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc tôi:  lo lắng có, cô đơn có, mệt mỏi có, sau mấy tháng căng thẳng...nhưng trong trí tôi, một quyết định sáng tỏ đã đánh tan mây mù.  Tôi nhớ lời Đức Cha John Walsh, một Giám mục truyền giáo gốc Mỹ, đã nói lúc ngài được tự do sau 12 năm tù ở Trung cộng:  “Tôi đã mất nữa đời người để chờ đợi”.  Rất đúng! tất cả mọi tù nhân, trong đó có tôi, phút giây nào cũng mong đợi tự do.  Suy nghĩ kỹ, trên chiếc xe Toyota trắng, tôi đã đặt cho mình một quyết định:  “Tôi sẽ không chờ đợi.  Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương”. 

      Đây không phải là một cảm hứng đột xuất, nhưng là một xác tín đã ấp ủ suốt quãng đời mãi từ tiểu chủng viện:  “Nếu tôi mất giờ đợi chờ, không làm gì hết, biết đâu những điều tôi đợi sẽ không bao giờ đến.  Chỉ có một điều, dù không đợi cũng vẫn đến, đó là sự chết!” 

      Trong làng Cây Vông, nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo dõi.  Trong óc một tư  tưởng không ngừng làm tôi xót xa, thao thức:  “Giáo dân của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa bao hiểm nguy, thách đố của một giai đoạn lịch sử mới.  Làm sao tôi có thể gần gủi, liên lạc với họ, trong giai đoạn họ cần đến người mục tử nhất!  Các nhà sách Công giáo bị đóng cửa, trường học Công giáo do Nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được dạy dỗ trong các trường nữa; các linh mục, sư  huynh, nữ tu có khả năng phải đi ra thôn quê, đi nông trường lao động, không được dạy học nữa!  Sự xa lìa giáo dân là một cú “sốc” giày vò tan nát quả tim tôi. 

      Tôi không đợi chờ.  Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương.  Nhưng làm thế nào? 

      Một đêm, một tia sáng đến với tôi:  “Con hãy bắt chước thánh Phaolô.  Khi ngài ở tù, không hoạt động tông đồ được, ngài đã viết thư cho các giáo đoàn.  Đơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?” 

      Sáng hôm sau, vừa mới tinh sương, giữa tháng 10 năm 1975, tôi làm hiệu cho một cậu bé 7 tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh:  “Quang! con về nói má con mua cho ông mấy “bloc” lịch cũ, ông cần dùng”.  Chiều tối, chú bé mang lại mấy “bloc” lịch cũ.  Thế là mỗi đêm trong tháng 10 và tháng 11, 1975, tôi đã đóng hết cửa, lấy giấy xi-măng dán bên trong và viết “Sứ điệp từ ngục tù” cho giáo dân của tôi, dưới ánh đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha hồ đốt.  Mỗi sáng thực sớm tôi trao cho bé Quang, mấy tờ lịch tôi đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị của Quang chép lại kẻo mất.  Nếu để trên bàn tôi, “ông An” (một giáo dân) thấy sẽ sinh tai họa.  Đấy là đầu đuôi sách “Đường Hy Vọng”, sứ điệp lao tù thành hình là như  thế.  Hiện nay sách đã được xuất bản bằng tám thứ tiếng. 

      Chúa đã ban ơn cho tôi có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản nhất.  Tôi đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sẽ bị “chuyển trại” và không có điều kiện hoàn tất được.  Lúc viết đến số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây như  công trình “nghìn lẻ một đêm”.  Ngày 8-12-1975, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Tội, tôi đã tạ ơn Đức Mẹ cho tôi viết xong “Đường Hy Vọng” và trao trong tay Đức Mẹ gìn giữ, đó là của Đức Mẹ, nhờ ơn của Đức Mẹ, xin Đức Mẹ tiếp tục lo liệu.  Đoán vậy mà không sai, đến ngày 18-3-1976, tôi bị đưa vào trại Phú Khánh, biệt giam vất vả nhất. 

      Năm 1980, lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm trong bí mật cuốn thứ hai, “Đường Hy Vọng Dưới Anh Sáng Lời Chúa và Công Đồng Vatican II”, cuốn thứ ba, “Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng”. 

Tôi không chờ đợi.  Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương. 

      Trong Phúc âm, các Tông đồ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất:  “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ mua thức ăn”...Nhưng Chúa Giêsu muốn hành động trong phút hiện tại:  “Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9, 1).  Trên thánh giá, khi người ăn trộm thưa với Chúa Giêsu:  “Thưa Ngài, khi về thiên đàng xin Ngài nhớ đến tôi”.  Chúa Giêsu đáp:  “Hôm nay con sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đàng” (Lc 23, 42-43).  Trong tiếng “hôm nay” của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tất cả sự tha thứ, tất cả tình thương của Ngài. 

      Cha Maximiliano Kolbe sống tinh thần ấy khi ngài khuyên các tập sinh trong dòng:  “Tất cả, tuyệt đối, không điều kiện”.  Tôi đã nghe Đức Cha Helder Camara nói:  “Cả cuộc đời là học yêu thương”.  Một lần Mẹ Têrêxa Calcutta gửi thư  cho tôi, Mẹ viết:  “Điều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện nhưng là mức độ tình yêu ta đã để vào mỗi công việc”. 

      Làm sao yêu thương đến cao độ như  thế trong mỗi phút hiện tại?  Tôi nghĩ rằng tôi phải sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút như  là giờ phút cuối cùng của đời tôi.  Dẹp bỏ những gì là phụ thuộc, tập trung cả tâm hồn cho những gì là chính yếu.  Mỗi lời nói, mỗi tư  tưởng, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là “đẹp nhất” của đời tôi.  Tôi phải dành cho mỗi người tình yêu của tôi, nụ cười của tôi:  tôi phải lo sợ đánh mất một giây phút nào trong đời mình vì đã sống không ý nghĩa... 

      Tôi đã viết trong sách Đường Hy Vọng:  “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất:  giây phút hiện tại (x Mt 6, 34; Gc 4, 13-15).  Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất.  Con thấy đơn sơ, không phải khó (ĐHV 997). 

      Các bạn trẻ thân mến, trong thời đại này, Chúa Giêsu cần đến các bạn.  Đức Gioan Phaolô II tha thiết kêu gọi các bạn hãy đương đầu với những thách đố của thế giới hôm nay: 

Chúng ta đang sống trong một giai đoạn đầy biến chuyển kinh khủng.  Những lý thuyết được xem là đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt nay đã đến lúc xế chiều.  Trên hoàn cầu, cần phải phác họa lại ranh giới của nhiều quốc gia.  Nhân loại tự cảm thấy mình rất lúng túng, hốt hoảng, lo lắng (Mt 9, 36).  Nhưng lời Chúa không bao giờ qua đi; đọc lại lịch sử, chúng ta thấy bao nhiêu biến cố thăng trầm, đang lúc ấy lời Chúa đứng vững và chiếu sáng (Mt 24, 35).  Đức tin của Hội thánh được xây dựng trên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế độc nhất:  hôm qua hôm nay và mãi mãi (Eb 13, 18). 

(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2) 

Cầu Nguyện 

Lạy Chúa Giêsu, 

Chiều hôm qua, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, con đã bị bắt.

Đưa đi trong đêm, từ Sàigòn đến Nha Trang.

Trên đường dài bốn trăm rưởi cây số,

      ngồi trên xe giữa hai công an.

Con bắt đầu kinh nghiệm cuộc đời một tù nhân.

Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc con:

Buồn có, sợ có, căng thẳng có.

Tim con tan nát vì phải xa cách giáo dân của con.

Giữa cơn khổ nhục, con đã nhớ lời Thánh kinh:

“Họ đã liệt con vào giữa người gian ác” (Lc 22, 37).

Xe chở con xuyên ba giáo phận đã gắn liền với đời con:

Sàigòn, Phan Thiết, Nha Trang.

Con yêu mến đoàn chiên của con

      và sẳn sàng chịu tù đày, chịu chết vì họ.

Họ không biết vị mục tử của họ

      đang bước đi giai đoạn đầu của Đàng Thánh Giá;

Giữa đại dương cay đắng cực độ ấy,

      con cảm thấy mình tự do hơn bao giờ hết.

Con không có gì hết, dù một xu cũng không,

      trừ tràng chuỗi Mân côi, và ý thức Chúa Giêsu,

      Mẹ Maria không bao giờ rời con.

Trên đường tù đày con đã cầu nguyện:

 

Lạy Chúa là Chúa của con, là tất cả mọi sự của con.

Lạy Mẹ Maria, con xin dâng mình cho Mẹ,

      toàn thân con thuộc về Mẹ,

      mọi người thân yêu và mọi sự của con là của Mẹ.

Lạy Chúa, con không đợi chờ,

      con quyết sống phút hiện tại,

      và làm cho nó đầy tình thương,

      vì chấm này nối tiếp chấm kia,

      ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đời sẽ đẹp.

Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.

Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.

Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.

Như  Chúa Giêsu, trọn đời đã làm những gì đẹp lòng Đức Chúa Cha.

Mỗi phút giây con muốn làm lại với Chúa,

      “một giao ước mới,

      một giao ước vĩnh cửu”.

Con muốn cùng với Hội thánh hát vang:

      Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con và

      Chúa Thánh Thần.

 

Alleluia! Alleluia! Alleluia! 

Cây Vông, Nha Trang

nơi tôi bị quản thúc

16-8-1975, hôm sau lễ Đức Mẹ Lên Trời.

( còn tiếp)

Mục lục